Nhận diện nguy cơ sập bẫy thu nhập trung bình của Việt Nam

Nhận diện nguy cơ sập bẫy thu nhập trung bình của Việt Nam

Chuyển từ nước có thu nhập thấp sang nước có thu nhập trung bình là sự chuyển đổi vị thế quan trọng của Việt Nam. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là phải nhận diện những nguy cơ để có giải pháp thích hợp nhằm tránh sập bẫy thu nhập trung bình.

Tuy GDP bình quân đầu người đã tăng trưởng ngoạn mục trong mấy chục năm qua, nhưng gần đây, đã có nhiều ý kiến khác nhau về việc sập bẫy thu nhập trung bình của Việt Nam. Hiện có ba loại ý kiến.

Loại ý kiến thứ nhất cho rằng, Việt Nam đã sập bẫy thu nhập trung bình, với 5 biểu hiện: tăng trưởng kinh tế chậm lại; năng suất mờ nhạt; sự thiếu hụt của dịch chuyển cơ cấu theo đúng nghĩa; khả năng cạnh tranh trong bảng xếp hạng không có dấu hiệu tăng; xuất hiện các vấn đề do tăng trưởng gây ra, như ô nhiễm, tham nhũng, bong bóng bất động sản, chênh lệch giàu nghèo…

Loại ý kiến thứ hai cho rằng, Việt Nam chưa thể coi là đã sập bẫy thu nhập trung bình, vì nhiều lẽ. Lẽ dễ lý giải nhất là Việt Nam vừa thoát ra khỏi nhóm nước có thu nhập thấp, gia nhập nhóm nước có thu nhập trung bình, thì sao đã sập bẫy thu nhập trung bình được. Việc sập bẫy, nếu có, thì cũng phải một vài chục năm nữa.

Loại ý kiến thứ ba cho rằng, bẫy thu nhập trung bình là một nguy cơ - được hiểu là chưa vào nhà, nhưng đã ở ngoài sân - nếu không có giải pháp ngăn chặn các triệu chứng đã xuất hiện, thì nguy cơ đó sẽ biến thành hiện thực. Các triệu chứng được biểu hiện trên một số mặt chủ yếu sau đây.

Thứ nhất, tăng trưởng kinh tế từ năm 2006 đến 2013 đã chậm lại, chỉ đạt 6,06%/năm, trong đó bình quân giai đoạn 2011 - 2013 chỉ đạt 5,64%/năm, thấp xa so với thời kỳ 1991 - 1995 và thời kỳ 1991 - 2005. Đây là tốc độ tăng vừa thấp hơn tiềm năng (về tỷ lệ vốn đầu tư/GDP, về tốc độ tăng lực lượng lao động), vừa thấp hơn yêu cầu (chống nguy cơ tụt hậu xa hơn về mức GDP bình quân đầu người…). Mặc dù GDP bình quân đầu người tính bằng USD của Việt Nam liên tục tăng lên, nhưng chênh lệch với các nước vẫn còn lớn và tăng lên, cả tính theo tỷ giá hối đoái, lẫn theo sức mua tương đương, nên Việt Nam vẫn đứng trước nguy cơ tụt hậu xa hơn.

Do vậy, cùng với việc ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, cần tăng trưởng kinh tế với tốc độ tăng hợp lý.

Thứ hai, chất lượng tăng trưởng còn nhiều hạn chế, bất cập. Chất lượng tăng trưởng còn thấp, thể hiện ở hiệu quả đầu tư và năng suất lao động còn thấp. Hiệu quả đầu tư thấp thể hiện ở hệ số ICOR còn cao và tăng lên (bình quân thời kỳ 1996 - 2000 là 4,8 lần, thời kỳ 2001 - 2005 là 5,2 lần, thời kỳ 2006 - 2013 là 5,8 lần). Năng suất lao động năm 2013 của cả nước mới đạt 68,7 triệu đồng/người, tương đương với 3.289,2 USD. Tốc độ tăng năng suất lao động cũng chậm lại: bình quân năm thời kỳ 1991 - 2005 đạt 4,54%, thời kỳ 2006 - 2013 chỉ còn tăng 3,4%.

Tỷ trọng đóng góp của năng suất tổng hợp (TFP) đối với tốc độ tăng GDP mới đạt khoảng 28%, thấp xa so với mức 40% của các nước Đông Nam Á hiện nay.

Thứ ba, tái cơ cấu nền kinh tế chuyển biến chậm. Vấn đề này gần đây được nhấn mạnh và bước đầu đạt được những kết quả, nhưng quá trình khởi động triển khai chậm và kết quả so với yêu cầu còn thấp.

Tin bài liên quan