Dự án “đắp chiếu”, nhà thầu kiện đòi nợ
Theo đơn thư khởi kiện của Công ty Kumho Industrial Co. Ltd. (Hàn Quốc), ngày 17/12/2011, Công ty ký kết hợp đồng thi công tòa nhà thuộc dự án 1A Láng Hạ, phường Thành Công, quận Ba Đình, Hà Nội với chủ đầu tư là Công ty cổ phần Láng Hạ. Kumho Industrial Co. Ltd đóng vai trò là nhà thầu chính của dự án.
Đến ngày 28/12/2011, Ngân hàng phát hành chứng thư bảo lãnh, cam kết thanh toán cho Công ty cổ phần Láng Hạ. Giá trị bảo lãnh là 14,3 triệu USD, hiệu lực của chứng thư bảo lãnh là 17 tháng.
Sang đến năm 2012, chỉ sau 6 tháng được triển khai, thị trường bất động sản rơi vào trầm lắng và chủ đầu tư gặp khó khăn về tài chính, dự án đã bị tạm dừng thi công, “đắp chiếu” cho tới nay. Phía nhà thầu Kumho yêu cầu chủ đầu tư phải thanh toán phần công việc đã triển khai, tuy nhiên, Công ty cổ phần Láng Hạ không có khả năng chi trả. Trước tình hình đó, Kumho buộc phải đưa vụ việc ra tòa án, yêu cầu Ngân hàng thực hiện nghĩa vụ thanh toán theo chứng thư bảo lãnh.
Yêu cầu đòi nợ của Kumho gặp khó khăn vì thời điểm đó, Ngân hàng bảo lãnh đang trong giai đoạn làm thủ tục hợp nhất với 1 tổ chức tín dụng khác.
Năm 2015, vụ việc đã được đưa ra xét xử, nhưng sau đó bị hủy án vì các bên không thống nhất được số liệu về công nợ và khoản lãi phạt chậm trả.
Trước khi phiên tòa sơ thẩm lần thứ 2 được diễn ra vào ngày 16/8/2017, Kumho và Công ty cổ phần Láng Hạ đã ngồi lại với nhau xác nhận khoản nợ gốc là 1,4 triệu USD. Theo tính toán của Kumho, thời gian chủ đầu tư chậm thanh toán (từ năm 2012 - 2017) là 1.539 ngày. Với mức lãi suất cơ bản Ngân hàng Nhà nước công bố là 9%/năm, Kumho yêu cầu được thanh toán khoản lãi chậm trả là 552.000 USD. Tổng số tiền Kumho đòi nợ là 2,09 triệu USD.
Sáp nhập, mất hợp đồng gốc?
Trước đơn thư của Kumho, Ngân hàng sau hợp nhất nhiều lần từ chối nghĩa vụ thanh toán bảo lãnh. Lý lẽ Ngân hàng đưa ra là trong quá trình hợp nhất không được bàn giao hồ sơ hợp đồng bảo lãnh. Việc trích xuất trong hệ thống không tìm thấy hợp đồng bảo lãnh gốc.
Với tài liệu Kumho đưa ra, Ngân hàng khẳng định thư bảo lãnh vi phạm quy định Luật Các tổ chức tín dụng. Công ty cổ phần Láng Hạ là công ty con của Ngân hàng, nhưng hợp đồng bảo lãnh lại không có tài sản bảo đảm, cũng không được thông qua Hội đồng quản trị.
Kumho không đồng ý giải thích trên vì việc lưu trữ hồ sơ, nhân sự xáo trộn của Ngân hàng nằm ngoài sự kiểm soát của doanh nghiệp. Theo nhà thầu này, bảo lãnh là giao dịch độc lập, Kumho chỉ căn cứ vào đại diện pháp luật ký chứng thư bảo lãnh để yêu cầu thanh toán.
Được biết, hiện nay, Ngân hàng sau sáp nhập đang nắm giữ 94% cổ phần của Công ty cổ phần Láng Hạ. Như vậy, ngân hàng không chỉ là bên bảo lãnh, mà còn là chủ đầu tư dự án. Việc chủ đầu tư có nghĩa vụ thanh toán cho nhà thầu là đương nhiên.
Mâu thuẫn trong tính lãi chậm trả
Trong Hợp đồng xây dựng giữa Kumho và chủ đầu tư không ghi nhận thỏa thuận lãi chậm trả sẽ tính bằng VND hay USD. Trong đơn khởi kiện chủ đầu tư, Kumho căn cứ vào Điều 305, Bộ luật Dân sự 2005 và Quyết định số 2868/QĐ-NHNN yêu cầu tính lãi suất chậm trả bằng đồng Việt Nam là 9%/năm.
Công ty cổ phần Láng Hạ không đồng tình với cách tính trên. Chủ đầu tư cho rằng, chênh lệch lãi suất VND và USD là rất lớn. Giá trị hợp đồng được tính bằng USD, nên lãi suất cũng phải tính theo phương pháp bình quân lãi suất huy động USD qua các năm mới hợp lý. Theo đó, mức lãi suất phải là 3%/năm.
Cách tính này của CTCP Láng Hạ được Hội đồng xét xử Tòa án nhân TP.Hà Nội chấp thuận. Theo đó, tổng số tiền Kumho được thanh toán bao gồm nợ gốc là 1,4 triệu USD và lãi chậm trả là 184.224 USD, tương đương hơn 37 tỷ đồng.