Ảnh Internet
Đồng thời, Quốc hội giao Chính phủ nghiên cứu, đề xuất luật hóa các quy định về xử lý nợ xấu, tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu cùng với việc rà soát, sửa đổi, bổ sung Luật Các tổ chức tín dụng; trình Quốc hội xem xét chậm nhất tại Kỳ họp thứ 5 (tháng 5/2023).
Được biết, trong thời gian kéo dài thời hạn áp dụng toàn bộ quy định của Nghị quyết số 42/2017/QH14, Quốc hội đề nghị Chính phủ có giải pháp khắc phục những khó khăn, vướng mắc nêu tại Báo cáo số 174/BC-CP ngày 11/5/2022, chỉ đạo tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan, đơn vị gắn với trách nhiệm trong tổ chức thực hiện Nghị quyết, bảo đảm tính hiệu lực, hiệu quả của Nghị quyết.
Trước đó, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Nguyễn Thị Hồng cho biết, tổng nợ xấu xác định theo Nghị quyết số 42 tại thời điểm ngày 15/8/2017 là 541,6 nghìn tỷ đồng. Nợ xấu xác định theo Nghị quyết số 42 phát sinh mới trong thời gian Nghị quyết có hiệu lực tính đến 31/12/2021 là 251,3 nghìn tỷ đồng. Nợ xấu xác định theo Nghị quyết số 42 chưa được xử lý đến ngày 31/12/2021 là 412,67 nghìn tỷ đồng.
“Lũy kế từ 15/8/2017 đến 31/12/2021, toàn hệ thống các tổ chức tín dụng đã xử lý được 380,2 nghìn tỷ đồng, bằng 47,9% số nợ xấu theo Nghị quyết số 42 tại thời điểm 15/8/2017 và số nợ xấu theo Nghị quyết số 42 phát sinh mới trong thời gian Nghị quyết số 42 có hiệu lực”, Thống đốc cho biết.
Tính trung bình nợ xấu đã xử lý đạt khoảng 5,67 nghìn tỷ đồng/tháng, cao hơn mức trung bình 3,25 nghìn tỷ đồng/tháng trong giai đoạn trước khi Nghị quyết 42 có hiệu lực (từ năm 2012 - 2017).
Cũng liên quan đến vấn đề kéo dài thời hạn của Nghị quyết 42, TS. Nguyễn Quốc Hùng, Tổng thư ký Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam nêu quan điểm, nền kinh tế nói chung và ngành Ngân hàng nói riêng cũng chịu ảnh hưởng nặng nề bởi đại dịch COVID-19 trong hơn 2 năm qua. Trong bối cảnh các ngân hàng thực hiện Thông tư 01/2020/TT-NHNN; Thông tư 03/2021/TT-NHNN; Thông tư 14/2021/TT-NHNN, dẫn đến những khoản nợ dưới chuẩn được cơ cấu để khách hàng được vay tiếp nếu có phương án kinh doanh hiệu quả làm cho nợ xấu tiềm ẩn trong thời gian tới cũng là điều đáng lo ngại.
“Theo số liệu, hàng triệu tỷ đồng bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh, song nợ cơ cấu chỉ rơi vào khoảng 300.000 tỷ đồng. Các số liệu này chưa phản ảnh được hết thực tế. Thực chất trong 2 năm đại dịch, doanh nghiệp rất khó khăn và tiềm ẩn nợ xấu tăng cao”, ông Hùng nói.
Ông Hùng đặt vấn đề: "Trường hợp Nghị quyết 42 hết hiệu lực và không được gia hạn hiệu lực thì liệu ngân hàng có xử lý được nợ xấu hay không?".
“Tôi cho rằng ngân hàng vẫn xử lý được nợ xấu nhưng kết quả rất hạn chế, không những thế lại dẫn tới tình trạng khách hàng chây ì không trả nợ, trách nhiệm trong việc trả nợ của khách hàng sẽ quay trở lại như trước khi có nghị quyết 42 và khả năng nợ xấu sẽ rất khó khăn trong việc xử lý. Trước áp lực đó, Ngân hàng Nhà nước trình Chính phủ kiến nghị lên Quốc hội tiếp tục xem xét, sửa đổi bổ sung và kéo dài Nghị quyết 42”, ông Hùng nói.
Theo ông Hùng, thực tế cho thấy Nghị quyết 42 tạo hành lang pháp lý tương đối đầy đủ giúp ngành ngân hàng xử lý nợ xấu đạt được kết quả rất khả quan, đồng thời người dân ý thức được trách nhiệm trong việc trả nợ. Vì vậy, việc kéo dài Nghị quyết 42 là rất cần thiết hoặc có thể ban hành luật chuyên ngành về xử lý nợ xấu.
“Trường hợp không ban hành được luật xử lý nợ xấu thì trong thời gian kéo dài Nghị quyết 42 tôi mong muốn NHNN phối hợp với các bộ, ngành rà soát Luật các Tổ chức tín dụng và các bộ luật liên quan trên cơ sở rút kinh nghiệm quá trình thực thi Nghị quyết 42 để sửa đổi bổ sung đồng bộ Luật các Tổ chức tín dụng với các bộ luật liên quan như: Bộ Luật dân sự, Luật Kinh doanh bất động sản, Luật Thuế, Luật đất đai, Luật nhà ở... để Chính phủ, Quốc hội không phải quan tâm lo lắng vấn đề nợ xấu của các TCTD”, ông Hùng nói.