WB nhận định, nguồn tăng trưởng trong thời gian qua chủ yếu dựa vào nhu cầu trên quy mô toàn cầu đang ở chu kỳ tăng, đầu tư ở khu vực FDI và khu vực tư nhân đang khôi phục; đồng thời, quá trình chuyển dịch lao động từ nông nghiệp sang các ngành dịch vụ, chế tạo và chế biến có năng suất cao hơn đang diễn ra.
Ông Ousmane Dione, Giám đốc Quốc gia WB tại Việt Nam phát biểu: “Tăng trưởng kinh tế đầy ấn tượng trong năm 2017 và quý 1/2018 đang tạo nền tảng vững chắc để Việt Nam tiếp tục tiến lên. Giai đoạn kinh tế đang vận hành vững chắc này là cơ hội lớn để đầu tư cho nguồn nhân lực, nhờ đó giải quyết những thách thức nhằm duy trì đà tăng trưởng. WB luôn sẵn sàng hỗ trợ để Việt Nam đạt được mục tiêu tăng trưởng bền vững dài hạn".
GDP thực tăng gần 7,4% trong quý I năm 2018, nhờ môi trường bên ngoài thuận lợi với tăng trưởng GDP toàn cầu dự kiến đạt đỉnh ở mức 3,1% trong năm 2018. Tăng trưởng ở khu vực Đông Á và Thái Bình Dương dự kiến sẽ chững nhẹ xuống 6,3% trong năm nay, chủ yếu do Trung Quốc tiếp tục tăng trưởng chậm dần.
Cán cân thương mại của Việt Nam tiếp tục được cải thiện do kết quả vững vàng về thương mại và thu hút vốn FDI, đóng góp vào tổng thặng dư tài khoản vãng lai, ước đạt 6,8% GDP (Quý 1/2018). Tỷ giá được duy trì tương đối ổn định trong khi dự trữ ngoại hối tiếp tục tăng, ước đạt khoảng 63 tỷ USD trong 4 tháng đầu năm 2018, tương đương 3,6 tháng nhập khẩu.
Trong bối cảnh lạm phát thấp, chính sách tiền tệ tiếp tục hỗ trợ tăng trưởng, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) của Việt Nam tăng nhẹ ở mức 2,8% (so cùng kỳ năm trước) tại tháng 4/2018. Tăng trưởng tín dụng ở mức khá cao và thanh khoản dồi dào có thể làm gia tăng biến động trên các thị trường tài chính ở Việt Nam, nhất là trong bối cảnh chính sách tiền tệ trên toàn cầu dự kiến được thắt lại. Nợ công đã có dấu hiệu ổn định lại từ năm 2017, với tổng bội chi ngân sách ước tính sơ bộ ở mức 4,5% GDP. Tỷ lệ nợ công trên GDP giảm còn 61,4% năm 2017 so với 63,6% năm 2016.
Triển vọng trung hạn của Việt Nam, theo WB, tiếp tục cải thiện kể từ lần ban hành báo cáo trước vào tháng 12/2017. GDP theo giá so sánh dự kiến tăng 6,8% trong năm nay (so với 6,5% từ lần dự báo trước đó) trước khi ổn định lại ở mức 6,6% vào năm 2019 và 6,5% vào năm 2020, do sức cầu trên toàn cầu thế giới dự kiến sẽ chững lại.
Dự báo lạm phát sẽ ở mức xung quanh mục tiêu 4% của Chính phủ.
Cân đối tài khoản vãng lai dự kiến vẫn đạt thặng dư, nhưng có thể sẽ ở mức thấp hơn trong năm tới, do thâm hụt tăng lên ở tài khoản thu nhập và dịch vụ. Bội chi ngân sách và nợ công dự kiến vẫn trong vòng kiểm soát.
Ông Sebastian Eckardt, chuyên gia kinh tế trưởng WB tại Việt Nam nói: “Điều kiện kinh tế thuận lợi như hiện nay, với tăng trưởng cao và lạm phát thấp, là cơ hội đặc biệt để đẩy mạnh cải cách. Chính sách kinh tế vĩ mô cẩn trọng cần song hành với những cải cách cơ cấu sâu và toàn diện, bao gồm cải cách các quy định để loại bỏ rào cản và giảm chi phí hoạt động của khu vực tư nhân, đầu tư cho nguồn nhân lực và hạ tầng chất lượng cao. Đồng thời, tiếp tục cải cách để nâng cao năng suất của khu vực doanh nghiệp Nhà nước.”
Mặc dù triển vọng trước mắt được cải thiện, nhưng WB cho rằng, kinh tê Việt Nam còn nhiều rủi ro. Nhìn từ trong nước, tiến độ tái cơ cấu khu vực DN Nhà nước và khu vực ngân hàng còn chậm có thể gây ảnh hưởng bất lợi đến tình hình tài chính vĩ mô, làm giảm triển vọng tăng trưởng và tạo ra các nghĩa vụ nợ lớn cho khu vực Nhà nước. Rủi ro bên ngoài bao gồm chủ nghĩa bảo hộ thương mại đang trỗi dậy, bất định căng thẳng địa chính trị và quá trình thắt chặt tiền tệ diễn ra sớm hơn dự kiến có thể dẫn đến những biến động gây xáo trộn trên thị trường tài chính.
Bên cạnh đó, một Chuyên đề đặc biệt của Báo cáo đề cập đến những ưu tiên cải cách nhằm giảm chi phí thương mại và nâng cao năng lực cạnh tranh của Việt Nam. Theo WB, mặc dù Việt Nam đã đạt nhiều kết quả lớn về cắt giảm thuế quan, nhưng hiện vẫn còn nhiều cơ hội để giảm chi phí thương mại thông qua hợp lý hóa các biện pháp phi thuế quan hoặc kiểm tra chuyên ngành, nâng cao hiệu quả quản lý cửa khẩu và dịch vụ hậu cần. Điều đó có thể được thực hiện qua một chương trình tổng thể gồm bốn trụ cột:
Thứ nhất, giảm chi phí thương mại - liên quan đến thời gian tuân thủ các thủ tục và biện pháp kiểm tra chuyên ngành trước khi ra cửa khẩu và tại cửa khẩu.
Thứ hai, cải thiện chất lượng kết nối và hạ tầng liên quan đến thương mại.
Thứ ba, hình thành ngành dịch vụ logistics cạnh tranh.
Thứ tư, tăng cường phối hợp liên ngành và phối hợp với khu vực tư nhân.
Báo cáo cho rằng Kế hoạch Hành động Quốc gia về Logistics đã ban hành là nỗ lực ban đầu nhằm hình thành cơ chế hiệu quả để triển khai những ưu tiên cải cách tổng hợp về tạo thuận lợi thương mại và logistics, nhưng vẫn có thể tiếp tục được cải thiện để phản ánh thật tốt cách tiếp cận tổng hợp.