Ông Lê Minh Hoan, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn
Thưa ông, ngay sau khi Chính phủ ban hành Chiến lược phát triển nông nghiệp, nông thôn bền vững đến năm 2030, tầm nhìn 2050. Đích thân Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã đến tham dự và chỉ đạo Hội nghị “Tiếp tục Phát triển bền vững nông nghiệp Đồng bằng sông Cửu Long chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu” tại Kiên Giang. Đây là một sự kiện cấp vùng có ý nghĩa quan trọng, ông có thể chia sẻ thêm về tầm quan trọng của cuộc hội thảo này đối với phát triển nông nghiệp, nông thôn vùng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL)?
Nhờ vào vị trí địa lý, điều kiện thiên nhiên, ĐBSCL đã trở thành vùng sản xuất nông nghiệp hàng hoá tập trung, sớm tiếp cận nền kinh tế thị trường. Nông nghiệp chiếm tỷ trọng cao, so với bình quân cả nước, cung ứng đa dạng các mặt hàng lúa gạo, trái cây, thuỷ sản, đóng góp quan trọng vào kim ngạch xuất khẩu nông sản. Tuy nhiên, vì nhiều lý do khách quan lẫn nội tại, ĐBSCL chưa cất cánh như kỳ vọng.
Gần đây, ĐBSCL đón thêm một cơ hội. Quốc hội đã thông qua Nghị quyết về thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển thành phố Cần Thơ. Nhờ vị trí địa lý và lịch sử lâu đời, Cần Thơ - Tây Đô luôn được xác định là trung tâm nối kết các địa phương trong Vùng. Cùng với hệ thống giao thông đường bộ, trong đó các tuyến cao tốc trong giai đoạn trung hạn 2021-2025, các dự án thuỷ lợi, phòng chống thiên tai, sạt lở bờ sông, bờ biển, hạ tầng nông nghiệp, nông thôn đang trong quá trình chuẩn bị đầu tư, mở ra nhiều dư địa phát triển mới, ĐBSCL dần khơi thông điểm nghẽn về một vùng trũng hạ tầng như Thủ tướng đã từng phát biểu.
Trong tâm thế ấy, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn cùng các Bộ, ngành và 13 tỉnh vùng ĐBSCL cần bàn bạc, trao đổi để tìm giải pháp căn cơ hơn, đi đến thống nhất hành động và cùng hợp tác liên kết thực chất hơn cho sự phát triển ngành nông nghiệp, nông thôn ĐBSCL phát triển bền vững, theo kịp với xu thế của thế giới và thích ứng linh hoạt với biến đổi khí hậu hiện nay.
Ông kỳ vọng gì về cơ hội cho nông nghiệp, nông thôn vùng ĐBSCL, nhất là khi vừa đưa vào vận hành hệ thống kiểm soát mặn lớn nhất Việt Nam tại tỉnh Kiên Giang?
Cơ hội chỉ được khởi tạo và tận dụng, khi từng địa phương và cả vùng chuẩn bị thật tốt, thật đồng bộ ngay từ bây giờ, với tâm thế sẵn sàng, chủ động. Nếu không, sẽ mãi dừng lại ở cơ hội. Chúng ta cùng nhau hình dung rằng, trong vài ba năm nữa, khi hoàn chỉnh hệ thống hạ tầng giao thông - vận tải, đô thị, thuỷ lợi, phòng chống thiên tai, logistics phục vụ nông nghiệp, nông thôn, thì Đồng bằng sẽ như thế nào? Chắc chắn dòng chảy nông sản đến thị trường sẽ nhanh hơn, chi phí sẽ giảm hơn, sức cạnh tranh hàng hoá sẽ cao hơn. Doanh nghiệp, nhà đầu tư, nhất là đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp, sẽ đến với ĐBSCL ngày càng nhiều hơn.
Trong những ngày này, cùng với sự kiện khánh thành công trình thuỷ lợi Cái Lớn - Cái Bé (giai đoạn 1), chúng ta cảm nhận được sự phấn khích của gần 18 triệu người dân ĐBSCL chào đón tin vui từ những quyết sách lớn của Đảng, Quốc hội, Chính phủ. Cùng với tâm lý phấn chấn, lạc quan, còn bao nỗi niềm, băn khoăn về nông nghiệp, và cũng là sự trăn trở của Thủ tướng Chính phủ tại nhiều Hội nghị, các cuộc gặp gỡ với các địa phương và nhân dân trong Vùng. Do đó, đã đến lúc ĐBSCL cần có cách nghĩ mới hơn, khác hơn, lớn hơn, táo bạo hơn để kích hoạt vùng đất giàu tiềm năng này.
Theo ông, dường như nếu chỉ chú tâm vào đầu tư cơ sở hạ tầng thì vẫn chưa đủ để nông nghiệp ĐBSCL “cất cánh”?
Nông nghiệp Việt Nam, trong đó có ĐBSCL, đang đối mặt những thách thức lớn: biến đổi khí hậu, biến động thị trường, biến chuyển xu thế tiêu dùng trên thế giới. Tình trạng đứt gãy chuỗi cung ứng toàn cầu trong dịch bệnh Covid-19 và những sự kiện thời sự nóng bỏng những ngày gần đây là minh chứng rõ nét về một thế giới đầy rẫy “biến động, bất định, phức tạp và có phần mơ hồ”. Nhưng theo tôi, còn thách thức lớn hơn, được nhắc đến nhiều lần trên các diễn đàn, đó là, một nền nông nghiệp “manh mún, nhỏ lẻ, tự phát”, “thiếu tính liên kết vùng”. Thách thức đó, như một lời nguyền, nếu không vượt qua được, thì sẽ khó tạo ra sự phát triển nhanh về chất, và nông sản phải luôn đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường, với sự thay đổi nhanh chóng, khó lường của xu thế toàn cầu , vừa mở ra nhiều cơ hội nhờ các hiệp định thương mại vừa có xu thể bảo hộ mậu dịch và chiến lược tự chủ lương thực của nhiều quốc gia.
ĐBSCL có 13 tỉnh, thành phố, khoảng 150 đơn vị cấp huyện, hơn một ngàn đơn vị cấp xã, gần mười triệu hộ nông dân đang đứng trước lựa chọn chuyển từ “tư duy sản xuất nông nghiệp” sang “tư duy kinh tế nông nghiệp”. Hệ sinh thái tự nhiên, đa dạng sinh học bị suy thoái kiệt sau thời gian dài lạm dụng phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, đặt ra thách thức lớn với định hướng tiến đến một nền nông nghiệp xanh.
Tư duy theo mùa vụ của người nông dân, tầm nhìn theo thương vụ của doanh nghiệp vô tình gây trở ngại cho mục tiêu liên kết bền vững giữa sản xuất và tiêu thụ. Vùng nguyên liệu cây ăn trái, thuỷ sản, lúa gạo tương đồng, phân tán khiến công tác quảng bá hình ảnh, xây dựng thương hiệu và xúc tiến thương mại nông sản gặp nhiều khó khăn.
Những vấn đề nội tại cho thấy, dù hạ tầng được đầu tư như thế nào, nhưng nếu không giải quyết thoả đáng những nút thắt vừa nêu, thì cũng khó và chậm cải thiện được tình hình mất cân đối cung cầu. Chặng đường hướng tới thị trường chất lượng cao, tạo ra giá trị gia tăng cao và tăng thêm thu nhập cho người nông dân, lại càng thêm xa.
Sự điều phối theo chuỗi ngành hàng, tính liên kết vùng, tiểu vùng giữa các địa phương cần phải được chú trọng ngay đầu mùa vụ, chứ không phải chỉ tập trung xử lý khi nông sản ùn ứ sau thu hoạch. Mỗi địa phương cần chủ động mở rộng không gian liên kết, phát triển. Đất đai có thể manh mún, địa giới hành chính có thể bị chia cắt, nhưng tư duy không thể manh mún, không gian kinh tế không thể bị chia cắt. Một doanh nhân đã từng chia sẻ với tôi: “Nhiều nhà đầu tư nước ngoài có thể khó nhận biết chính xác từng địa phương riêng rẽ, nhưng chắc chắn đều biết đến Mekong Delta – Đồng bằng sông Cửu Long”.
Đứng về góc độ lãnh đạo ngành, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đang chuẩn bị tâm thế và những kế hoạch, mục tiêu nào để nông nghiệp ĐBSCL phát triển bền vững và hiệu quả trong xu thế mới hiện nay?
Sản xuất nông nghiệp ít nhiều tác động đến biến đổi khí hậu. Tại Hội nghị thượng đỉnh các nhà lãnh đạo quốc gia trên thế giới, COP 26, Thủ tướng Chính phủ đã cam kết đến năm 2050 Việt Nam sẽ là quốc gia có nền kinh tế cân bằng các-bon. Nếu nói biến đổi khí hậu là một thách thức, thì từ góc nhìn tích cực, khi giải quyết được thách thức này lại tạo ra thương hiệu cho ĐBSCL.
Thương hiệu “Mekong Delta” rồi sẽ được nhận biết sâu sắc với hình ảnh một đồng bằng, mặc dù chịu tác động lớn của thiên nhiên, nhưng biết cách thích ứng, vượt qua thách thức và phát triển một cách thông minh, hài hòa, thuận thiên.
Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn sẽ khai trương Văn phòng điều phối Nông nghiệp vùng ĐBSCL tại thành phố Cần Thơ. Chúng tôi sẽ hỗ trợ điều phối công tác quy hoạch sản xuất, chuẩn hoá vùng nguyên liệu; kết nối doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp công nghệ cao, chế biến sâu; nối kết chuỗi ngành hàng, hỗ trợ nâng cao chất lượng hợp tác xã, hình thành mối liên kết giữa sản xuất và tiêu thụ; điều phối vận hành các công trình thuỷ lợi đảm bảo đồng bộ toàn hệ thống; hỗ trợ chuyển đổi số nông nghiệp cấp Vùng. Ngoài ra, cũng sẽ hỗ trợ điều phối các dự án tài trợ quốc tế có tính liên tỉnh, liên vùng, kết hợp hài hoà giữa đầu tư công trình và các giải pháp phi công trình, mở ra không gian kinh tế nông thôn.
Bộ đang tích cực đàm phán, kêu gọi các dự án đầu tư hạ tầng logistic nông nghiệp, nông thôn, trong đó có chuỗi kho lạnh bảo quản nông sản cấp độ liên huyện, liên tỉnh dọc theo sông Hậu và sông Tiền. Và ngay tại Hội nghị ngày hôm nay, với sự chứng kiến của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, cùng UBND các tỉnh, thành phố sẽ ký kết chương trình phối hợp về phát triển nông nghiệp, nông thôn trong thời gian tới. Hy vọng rằng, đến năm 2025, cùng với hệ thống hạ tầng giao thông, hạ tầng nông nghiệp, hạ tầng xã hội, giáo dục, nguồn nhân lực, tư duy liên kết vùng sẽ quyết định sự phát triển bền vững cho vùng Châu thổ sông Mê Kông này.
Những mô hình nông nghiệp sinh thái, tích hợp đa giá trị, thuận thiên gần đây đã xuất hiện ở nhiều địa phương trong Vùng: Mô hình kinh tế dưới tán rừng, mô hình tôm - lúa ở bán đảo Cà Mau, mô hình chuyển đổi từ độc canh cây lúa sang đa canh, xen canh đã tăng thu nhập cho nông dân vùng Đồng Tháp Mười, Tứ giác Long Xuyên, mô hình sản xuất thích ứng với hạn mặn ở các tỉnh duyên hải.
Chương trình “Mỗi xã phường một sản phẩm” được các địa phương chú trọng đã kích hoạt tài nguyên bản địa kết hợp với giá trị văn hoá địa phương. Gần đây, nhiều tập đoàn, doanh nghiệp lớn cũng đã triển khai những dự án quy mô có tính liên tỉnh, hứa hẹn sẽ kích hoạt tiềm năng nhiều địa phương. Đó là những tín hiệu lạc quan minh chứng cho sự sáng tạo, năng động và sức sống của ĐBSCL. Vấn đề là chúng ta cần nối kết, lan toả những giá trị mới đó.
Theo ông, xung lực mới cho ĐBSCL phải bắt đầu từ đâu?
Liên kết vùng ĐBSCL không phải là phép tính cộng về dân số, về diện tích, về nguồn lực hữu hình của 13 tỉnh, thành phố. Hơn hết, đó là độ mở, kết nối về tư duy, kết nối các nguồn lực vô hình, vô hạn, tạo dựng mối quan hệ hài hoà giữa “Nhà nước – Thị trường – Xã hội”, kiếm tìm xung lực mới, khởi tạo không gian phát triển mới.
Khi ấy, mỗi địa phương, với điều kiện đặc thù, thế mạnh riêng có, sẽ đóng góp chủ động, hài hoà vào tổng thể không gian kinh tế chung. Khi ấy, Đồng bằng sẽ trở thành một thực thể kinh tế hoàn chỉnh, vận hành linh hoạt, năng động. Người dân sẽ vững vàng tâm thế chủ thể, chất lượng sống của bà con nông dân ngày càng được nâng cao, như lời chia sẻ chân tình của Thủ tướng Chính phủ. Và những câu hỏi ám ảnh, day dứt về “Tương lai nào cho miền Tây?”, những trăn trở, đau đáu về làn sóng di cư, ly nông, ly hương,… chỉ còn lại trong lời kể, về một thời gian khó đã qua. Chúng ta có niềm tin vững chắc rằng, khát vọng vùng Đất Chín Rồng với nền nông nghiệp “Xanh - Sinh thái - Bền vững” sẽ sớm được hiện thực hoá.