Muốn quyết toán thuế, nhà đầu tư phải thu thập đủ chứng từ

(ĐTCK) “Muốn không bị nộp thuế khi đầu tư thua lỗ, trước hết bản thân NĐT cá nhân đầu tư trên TTCK phải nỗ lực quyết toán thuế, tránh tâm lý ngại khó, ngại khổ dẫn đến chịu thiệt…”.
Muốn quyết toán thuế, nhà đầu tư phải thu thập đủ chứng từ

Bà Nguyễn Thị Cúc (ảnh trên), nguyên Phó tổng cục trưởng Tổng cục Thuế, Chủ tịch Hội tư vấn Thuế Việt Nam, trao đổi với ĐTCK.

NĐT cá nhân phản ánh do bất cập của quy định pháp lý nên việc quyết toán thuế với họ là không khả thi. Là người từng tham gia xây dựng chính sách thuế thu nhập cá nhân (TNCN) áp dụng đối với NĐT đầu tư trên TTCK, bà có nhận thấy phản ánh này là xác đáng?

Đúng là việc quyết toán thuế đối với NĐT cá nhân hiện gặp rất nhiều khó khăn. Điều này không chỉ xuất phát từ bất cập của quy định pháp lý, mà còn từ chính tâm lý ngại khó của NĐT.

Không chỉ tại Việt Nam, mà trên thế giới cũng vậy, bản chất của quyết toán thuế là việc không đơn giản, bởi đòi hỏi người quyết toán thuế phải thường xuyên cập nhật và lưu giữ đầy đủ các chứng từ liên quan.

Trong khi tại Việt Nam, các cá nhân nói chung, NĐT tham gia trên TTCK nói riêng lại chưa hề làm quen với việc quyết toán thuế, đã phải làm một việc phức tạp đến như vậy, nên có tâm lý ngại là điều dễ hiểu. Tuy nhiên, nếu bản thân NĐT không nỗ lực vượt qua tâm lý này, thì họ phải chấp nhận nộp thuế ngay cả khi đầu tư thua lỗ.

Hiện giao dịch của NĐT chủ yếu thực hiện qua internet, trong khi quy định pháp lý hiện hành chưa rõ ràng, chuẩn hóa các loại chứng từ để quyết toán thuế, khiến việc quyết toán thuế không khả thi?

Quy định pháp lý hiện hành đã đủ cơ sở để NĐT cá nhân có mã số thuế thu thập chứng từ phục vụ cho quyết toán thuế.

Cụ thể, khi thực hiện giao dịch mua, bán cổ phiếu, NĐT phải yêu cầu CTCK nơi mở tài khoản giao dịch in sao kê với đầy đủ các thông tin: thời gian giao dịch; giá mua, bán; phí mua, bán; mức thuế khấu trừ khi bán cổ phiếu.

Nếu NĐT thường xuyên thực hiện các giao dịch mua, bán cổ phiếu trong năm, thì bất kể phát sinh một giao dịch nào, cũng đều phải thu thập và lưu giữ chứng từ ngay, nếu để thời gian dài hoặc cuối năm mới thu thập chứng từ, sẽ rất khó đầy đủ.

Các chứng từ này là hợp lệ để phục vụ cho việc quyết toán thuế của NĐT. Nếu NĐT xuất trình đầy đủ các loại chứng từ đó, mà cơ quan thuế không chấp nhận, có thể khởi kiện ra tòa để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của mình.

Với NĐT thực hiện hàng trăm giao dịch mỗi năm, mua bán hàng chục mã cổ phiếu, thì việc thu thập đầy đủ chứng từ để quyết toán thuế là chuyện không tưởng, thưa bà?

Nếu NĐT cá nhân muốn quyết toán thuế, thì buộc phải thu thập chứng từ, chứ không có cách nào khác. Từ hàng trăm giao dịch mua bán hàng chục mã cổ phiếu trong năm, cùng với việc thu thập đủ chứng từ, NĐT còn phải tự tính toán giao dịch nào lãi (giá mua trừ giá bán, trừ phí giao dịch đã nộp cho CTCK), giao dịch nào lỗ.

Bước tiếp theo là NĐT tự tính toán các giao dịch lãi bù trừ cho các giao dịch lỗ trong năm, trên cơ sở đó xác định thu nhập tính thuế, để kê khai, quyết toán với cơ quan thuế.

Bà nghĩ sao về tính khả thi của việc UBCK có dự định nghiên cứu, xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu tính thuế TNCN từ hoạt động đầu tư vốn theo hướng NĐT có thể lựa chọn cách tính thuế trên thu nhập chịu thuế cả năm?

Đây là việc khó, nhất là khi NĐT được mở nhiều tài khoản ở nhiều CTCK khác nhau, nên cơ quan quản lý khó thống kê được các giao dịch lỗ - lãi trong năm, để làm cơ sở quyết toán thuế. Không chỉ tại Việt Nam, mà trên thế giới, việc cơ quan quản lý xây dựng cơ sở dữ liệu người nộp thuế chủ yếu là để phục vụ cho hoạt động quản lý thuế, giảm thiểu các hành vi gian lận thuế.

Với tính chất như vậy, hệ thống thông tin này không phải trường hợp nào cũng được công khai cho người nộp thuế. Do đó, việc cơ quan quản lý nỗ lực hình thành cơ sở dữ liệu để giúp NĐT thuận tiện trong nộp thuế là điều đáng khích lệ, nhưng nó không thể thay thế cho hệ thống chứng từ mà NĐT có nghĩa vụ phải thu thập để phục vụ cho quyết toán thuế.

Để tạo thuận lợi cho NĐT cá nhân quyết toán thuế, sẽ khả thi hơn nếu cơ quan quản lý đơn giản hóa tối đa hệ thống chứng từ, cũng như thủ tục quyết toán thuế cho NĐT.

Kinh nghiệm thế giới xử lý vấn đề này ra sao, thưa bà?

Tại nhiều TTCK trên thế giới, NĐT cá nhân tham gia đầu tư trực tiếp không nhiều, nên những rắc rối phát sinh như Việt Nam không phổ biến.

Phần đông NĐT cá nhân nước ngoài đầu tư theo hình thức ủy thác đầu tư, nên họ thường ủy quyền cho đơn vị nhận ủy thác, hoặc thuê đơn vị tư vấn thuế thu thập chứng từ, thực hiện quyết toán thuế.

Hơn nữa, NĐT cá nhân nước ngoài thường ít đầu tư lướt sóng như NĐT cá nhân Việt Nam, mà họ thường đầu tư dài hạn, nên thậm chí cả năm không phát sinh giao dịch nào, hoặc nếu có cũng không nhiều, nên việc thu thập chứng từ để quyết toán thuế không quá phức tạp.

Tin bài liên quan