Nợ xấu vẫn bí đầu ra
Quá trình tái cấu trúc ngành ngân hàng Việt Nam trong thời gian qua đã có những thành công nhất định như: giảm số lượng các ngân hàng nhỏ, yếu kém, xóa dần tình trạng sở hữu chéo trong ngành. Nhưng thực tế cho thấy, điều đó chỉ mới tác động về mặt tâm lý với nhà đầu tư khi họ cho rằng, việc sáp nhập ngân hàng yếu lại với nhau hoặc ngân hàng yếu vào ngân hàng lớn để giảm số lượng, lành mạnh được hệ thống và các ngân hàng sẽ phát triển lành mạnh hơn sau thời gian tái cấu trúc.
Còn thực tế, những phần việc phía trước vẫn còn rất lớn, một phần vì sự chưa đủ quyết liệt trong quá trình xử lý nợ xấu của Việt Nam.
Nếu nói đến mua nợ xấu, trong năm qua, VAMC đã thành công trong việc “gom” nợ xấu, làm sạch sổ sách cho các ngân hàng. Với vai trò “đặc biệt” của mình, tính từ khi đơn vị này bắt đầu mua nợ đến cuối năm 2014 đã đạt được khoảng 125.000 - 130.000 tỷ đồng nợ gốc, với giá mua xấp xỉ 105.000 tỷ đồng.
Riêng năm 2014, VAMC đã mua khoảng 90.000 - 95.000 tỷ đồng nợ xấu với giá mua là trên 70.000 tỷ đồng. Còn thực tế, con số xử lý nợ xấu thực chất của VAMC trong năm qua chỉ mới là 4.000 tỷ đồng.
Mặt khác, VAMC đẩy mạnh mua nợ xấu của ngân hàng, nhưng đó là nợ xấu trong quá khứ, tức nợ xấu đã phát sinh.
Chúng ta cũng không thể khẳng định được rằng, nợ xấu của ngân hàng sẽ không còn phát sinh trong vòng 5 năm tới, đồng thời cũng không loại trừ trường hợp sẽ có ngân hàng lặp lại tình trạng nợ xấu tăng cao như thời gian qua.
Ông Yun Hang Jin, Giám đốc khối thị trường mới nổi, Công ty Korea Investment & Securities (Hàn Quốc)
Quá trình xử lý nợ xấu của ngân hàng thời gian qua và cả hiện nay có những khó khăn nhất định và thực tế, nếu không có công cụ hỗ trợ đắc lực từ VAMC thì khó đưa nợ xấu xuống mức thấp, làm sạch được bảng cân đối kế toán.
Tuy trách nhiệm xử lý nợ vẫn thuộc về ngân hàng và các ngân hàng phải trích dự phòng 20% hàng năm cho trái phiếu đặc biệt nhận lại từ VAMC, nhưng nếu không bán các khoản nợ xấu cho VAMC thì các ngân hàng cũng phải trích dự phòng rủi ro theo quy định.
Điều này làm ảnh hưởng lớn tới kết quả kinh doanh của ngân hàng và khoản nợ xấu vẫn tồn tại trên bảng cân đối của họ. Sau M&A và quá trình tái cơ cấu, nợ xấu của các ngân hàng thương mại được đưa về dưới ngưỡng an toàn 3%. Thậm chí, ở một số nhà băng sau sáp nhập, hợp nhất có số lượng nợ xấu lớn do những tồn tại trước sáp nhập để lại, nhưng kể từ khi VAMC ra đời, nợ xấu của các nhà băng này đã được kéo giảm xuống mức rất thấp.
Trên thực tế, nợ xấu dù có bán cho VAMC vẫn là nợ xấu, trừ khi các ngân hàng xử lý được nó bằng cách thu nợ, bán tài sản… Thế nhưng, trong tình hình hiện nay, việc xử lý nợ xấu không dễ, nếu các ngân hàng không chuyển qua cho VAMC thì không có cách nào để đưa nợ xấu về ngưỡng an toàn. Và nếu như vậy, các ngân hàng sẽ rất khó có thể giao dịch trong quá trình hoạt động với đối tác, khách hàng…
Vì thế, dẫu có thể chưa xử lý triệt để, VAMC được xem là công cụ đắc lực cho các ngân hàng trong việc làm sạch bảng cân đối kế toán để có thể dễ dàng làm việc với các đối tác, khách hàng cũng như thu hút các nhà đầu tư chiến lược nước ngoài.
Có nhiều ý kiến cho rằng, việc xử lý nợ xấu hiện nay bắt đầu có dấu hiệu tích cực hơn khi thị trường bất động sản có dấu hiệu hồi phục ở phân khúc nhà ở. Vì thực tế, nợ xấu chủ yếu nằm ở lĩnh vực bất động sản nên khi thị trường này ấm lên sẽ là cơ hội để xử lý nợ xấu.
Thứ hai, nợ xấu nằm ở các DN có hàng tồn kho lớn, do sức mua thị trường giảm nên cần các chính sách kích cầu. Và các chính sách kích cầu của Chính phủ Việt Nam đòi hỏi có thời gian phát huy tác dụng. Mặt bằng lãi suất hiện đã giảm, kích tín dụng tiêu dùng tăng trưởng tốt…
Tuy nhiên, vấn đề xử lý nợ hiện nay vẫn còn khá nhiêu khê trong khâu khởi kiện, thu giữ, bán, phát mại tài sản nên rất khó có thể thu hồi được nợ, vì thủ tục ra tòa rất phức tạp.
Do đó, trong thời gian tới, Việt Nam cần có sự thay đổi trong một số điều luật cũng như sự phối hợp chặt chẽ của các ngành có liên quan để đảm bảo thực thi quyền thu giữ, phát mại tài sản thế chấp trong quá trình xử lý nợ được nhanh chóng, thuận tiện hơn.
Và nguy cơ quay vòng?
Mục tiêu đưa nợ xấu về dưới 3% vào cuối năm nay của ngành ngân hàng Việt Nam được đánh giá là có cơ sở, bởi nếu nhìn vào con số thống kê, Ngân hàng Nhà nước cho biết, tính đến thời điểm cuối tháng 11/2014, nợ xấu theo báo cáo của các tổ chức tín dụng là 167.861 tỷ đồng, tương đương khoảng 3,8%; tỷ lệ nợ xấu theo kết quả phân loại dựa trên thông tin tín dụng của CIC là 5,3%.
Giai đoạn 2012 - 2014, các ngân hàng thương mại đã tự xử lý được 54% nợ xấu. Điều này cho thấy, xu hướng nợ xấu trong hệ thống ngân hàng Việt Nam đã giảm và sức khỏe của ngành ngân hàng cũng phần nào được cải thiện. Tuy nhiên, đó chỉ mới xét trên con số tổng thể, còn về thực tế, bản thân tình trạng nợ xấu của các ngân hàng đã được cải thiện hơn hay chưa thì chưa thể khẳng định.
Có thể nhận định, các thông tin được công bố từ nhiều ngân hàng còn thiếu tính minh bạch và không đầy đủ, trong đó có tỷ lệ nợ xấu.
Kế hoạch năm 2015, VAMC mua khoảng 80.000 tỷ đồng nợ gốc. Vì vậy, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã áp chỉ tiêu nợ xấu phải bán cho VAMC xuống các ngân hàng thương mại ngay từ quý đầu năm.
Việc áp chỉ tiêu bán nợ xấu cho VAMC xuống các ngân hàng cũng là chuyện bình thường và đây còn là giải pháp tốt cho các ngân hàng trong việc xử lý nợ. Bởi trên cương vị nhà điều hành, chủ quản hệ thống, Ngân hàng Nhà nước sẽ nhìn thấy rõ bản chất của từng ngân hàng thương mại cũng như khoản nợ xấu của các ngân hàng đó và mục tiêu của Ngân hàng Nhà nước là kiểm soát nợ xấu cuối năm nay về mức dưới 3%.
Chính vì vậy, để kiểm soát nợ xấu toàn ngành về dưới 3% vào cuối năm nay, cách tốt nhất là các ngân hàng phải đẩy mạnh bán nợ xấu cho VAMC.
Nhưng một khi con số nợ xấu VAMC mua về từ các ngân hàng thương mại ngày một lớn dần thì việc tìm đầu ra trong xử lý nợ xấu là cần thiết để tổ chức này có điều kiện mua thêm nợ xấu mới.
Việc Chính phủ Việt Nam vừa ban hành Nghị định số 34/2015/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 53/2013/NĐ-CP ngày 18/5/2013 về thành lập, tổ chức và hoạt động của VAMC có hiệu lực từ ngày 5/4/2015 được cho là cần thiết.
Mục tiêu chính của Nghị định 34 là tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong việc mua bán, xử lý nợ xấu và cụ thể là việc mua bán nợ theo cơ chế thị trường. Nghị định 34/2015/NĐ-CP cũng bổ sung quy định xử lý tài sản bảo đảm của các khoản nợ xấu mà VAMC đã mua.
Thế nhưng, để xử lý việc mua bán nợ theo cơ chế thị trường thì ai là người chấp nhận lỗ trong việc xử lý nợ xấu? Theo kinh nghiệm từ các nước thì Hàn Quốc bán nợ xấu thu lại 45%; Trung Quốc thu lại 40%... Nhưng đối với Việt Nam, hiện sau khi mua nợ xấu từ các ngân hàng thương mại, VAMC muốn bán lại nợ xấu theo giá thị trường cũng là điều hết sức khó khăn, vì sợ thất thoát vốn.
Thêm vào đó, vấn đề xử lý nợ xấu bằng cách phát mại tài sản không dễ. Vì thế, để giải quyết được nợ xấu và mua bán nợ theo cơ chế thị trường, cần phải có sự quyết liệt và mạnh mẽ cũng như chấp nhận hy sinh những lợi ích trước mắt. Đồng thời, để có thể giải quyết được nợ xấu cần phải có nguồn lực thật cho VAMC hoặc phía các ngân hàng cũng phải chịu lỗ.
Thực tế, trong thời gian qua, VAMC đã mua nợ xấu của các ngân hàng với giá khá cao, mức chiết khấu chỉ 10 - 20% . Vì thế, để bán lại theo giá thị trường là không dễ. Bởi thông thường, khi mua nợ thường được mua với giá hợp lý, giá rẻ, sau đó mới dễ dàng bán lại.
Trong khi đó, VAMC thời gian qua đã mua nợ xấu với giá trị khoảng 80 - 90%. Như thế, khó bán nợ theo cơ chế giá thị trường để xử lý triệt để các khoản nợ xấu đã mua về.
Song VAMC không xử lý triệt để nợ xấu thì vẫn có thể trả lại cho ngân hàng để thu về trái phiếu. Có thể thấy, quá trình xử lý nợ xấu của các ngân hàng hiện nay là mua thời gian, tức giãn thời gian nắm giữ nợ của các ngân hàng, chứ chưa hẳn đã xử lý triệt để.
Mặc dù Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã và đang đẩy mạnh sáp nhập, gom các ngân hàng nhỏ với nhau hoặc sáp nhập ngân hàng nhỏ, hoạt động yếu kém vào ngân hàng lớn, với kỳ vọng kiểm soát nợ xấu dưới ngưỡng 3% vào cuối năm, song cũng chỉ là giải pháp tạm thời.
Còn vấn đề nợ xấu vẫn phải cần một chính sách rõ ràng hơn mới có thể giải quyết được triệt để. Vì nếu một ngân hàng nhỏ có nợ xấu 1.000 tỷ đồng thì gom 3 ngân hàng lại với nhau, nợ xấu của ba ngân hàng này sẽ tăng lên 3.000 tỷ đồng.
Liệu Ngân hàng Nhà nước có chịu bỏ tiền mua lại nợ xấu này để xử lý triệt để hay vẫn là giải pháp kéo giãn thời gian? Do đó, kể cả việc đẩy mạnh sáp nhập ngân hàng hoạt động yếu kém vào nhà băng lớn cũng chưa phải là giải pháp toàn vẹn để xử lý được triệt để nợ xấu của ngành ngân hàng hiện nay.
Để kiểm soát nợ xấu cũng như buộc các ngân hàng thương mại hướng đến chuẩn mực quốc tế trong quản trị rủi ro, NHNN Việt Nam đã ban hành Thông tư 36/2014/TT-NHNN có hiệu lực từ ngày 1/2/2015, buộc các nhà băng “siết” lại nguồn tiền tín dụng vào chứng khoán.
Mục tiêu của Thông tư 36 là làm cho hoạt động của các ngân hàng Việt Nam mạnh lên, hướng đến chuẩn mực quốc tế. Tuy nhiên, có thể trước mắt, lợi nhuận của các ngân hàng sẽ bị sụt giảm, do phải áp dụng các chuẩn mới nghiêm ngặt hơn. Do đó, khả năng giá cổ phiếu ngân hàng sẽ bị ảnh hưởng.
Trong khi đó, nhóm ngân hàng đang niêm yết trên TTCK hiện chiếm tỷ trọng khá lớn trong “rổ” VN-Index, nên trong ngắn hạn, các quy định của Thông tư 36 sẽ có ảnh hưởng tiêu cực đến chứng khoán, vì cổ phiếu ngân hàng có thể kéo VN-Index đi xuống cùng với việc “siết” chặt nguồn tiền tín dụng từ các ngân hàng vào chứng khoán như trước đây.
Chuyển biến của cổ phiếu ngành ngân hàng sẽ phụ thuộc nhiều vào hiệu quả việc xử lý nợ xấu. Nhưng đây là tiến trình dài hạn, không thể xử lý trong vài tháng hoặc một vài năm. Vì vậy, việc đầu tư vào cổ phiếu ngân hàng trong năm 2015 không thích hợp với các nhà đầu tư ngắn hạn.