HPG có tỷ trọng nợ vay ngắn hạn bằng USD là 65% và phần lớn cũng là nợ vay ngắn hạn

HPG có tỷ trọng nợ vay ngắn hạn bằng USD là 65% và phần lớn cũng là nợ vay ngắn hạn

Lượng hóa tác động của tỷ giá đến doanh nghiệp niêm yết

(ĐTCK) Ngày 7/5, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) công bố điều chỉnh tăng 1% tỷ giá bình quân liên ngân hàng, từ 21.458 VND/USD lên 21.673 VND/USD. Như vậy, NHNN đã sử dụng hết cam kết cho biến động tỷ giá trong năm 2015. Với tình hình kinh tế vĩ mô hiện tại, cùng với việc đồng USD tăng giá đối với các đồng tiền khác, liệu có khiến NHNN tăng thêm tỷ giá và tác động của vấn đề này đến các DN niêm yết?

Tác động đến các doanh nghiệp có khoản nợ bằng USD

Tăng tỷ giá VND sẽ tăng tính cạnh tranh hoạt động sản xuất của các doanh nghiệp nội địa sử dụng nguyên vật liệu trong nước để sản xuất thay vì nhập khẩu từ nước ngoài. Điều chỉnh tỷ giá sẽ làm xuất khẩu hấp dẫn hơn và giảm nhu cầu nhập khẩu, giúp hỗ trợ tăng trưởng GDP và cán cân thương mại.

Hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp trong nước, bao gồm cả các doanh nghiệp xuất khẩu được cải thiện sẽ làm tăng ngân sách nhà nước thông qua nguồn thu thuế thu nhập doanh nghiệp tăng cũng như thuế từ hoạt động xuất khẩu dầu thô khi quy đổi về nội tệ. Tuy nhiên, điểm bất cập lớn nhất khi tiền đồng giảm giá dường như là sức ép đối với các khoản nợ bằng ngoại tệ.

Một số doanh nghiệp niêm yết đã phát hành trái phiếu ngoại tệ như Tập đoàn Hoàng Anh Gia Lai (HAG), Ngân hàng Vietinbank (CTG).

Với HAG, tại ngày 31/12/2014, dư nợ các khoản vay bằng USD của HAG chiếm khoảng 26% tổng dư nợ và đều để đầu tư nước ngoài như các dự án bất động sản tại Myanmar; đầu tư vào cao su và dầu cọ tại Lào và Campuchia. Những khoản đầu tư này đều tạo ra doanh thu bằng ngoại tệ để chi trả cho các khoản vay đó. Vì vậy, nhìn chung, VND giảm giá sẽ không ảnh hưởng nhiều đến HAG.

Tuy nhiên, trong ngắn hạn, dòng tiền từ các dự án nước ngoài sẽ không mạnh do những dự án này vẫn đang trong giai đoạn sơ khai, do đó, giảm giá tiền đồng sẽ tác động tiêu cực đến Công ty. Trong dài hạn, dòng tiền sẽ mạnh hơn và đủ chi trả cho các khoản vay bằng USD, kỳ vọng trong nửa cuối năm, tình hình của HAG sẽ khả quan hơn khi Công ty ghi nhận doanh thu từ các dự án bất động sản tại Myanmar.

CTG đã phát hành 250 triệu USD trái phiếu kỳ hạn 5 năm vào tháng 5/2012, đáo hạn vào tháng 5/2017. Lợi suất cố định 8%/năm, trả lãi 2 lần/năm. Tuy nhiên, VND giảm giá sẽ không ảnh hưởng nhiều đến CTG do Ngân hàng có lượng USD khá cân bằng giữa tài sản và các khoản nợ, đồng thời giá trị của khoản trái phiếu ngoại tệ trên tương đối nhỏ so với quy mô của Ngân hàng.

Với các doanh nghiệp vận tải, tăng tỷ giá 1% ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận ròng của các doanh nghiệp này. Tổng CTCP Vận tải Dầu khí (PVT) có khoản vay hơn 121 triệu USD tại ngày 31/12/2014. Theo Ban quản trị PVT, tỷ giá VND/USD tăng sẽ làm Công ty ghi nhận khoản lỗ chưa thực hiện 25 tỷ đồng.

Hay với Công ty Gemadept (GMD), cuối năm 2014, GMD có khoản nợ ròng bằng ngoại tệ khoảng 46,7 triệu USD. Lợi nhuận ròng của GMD giảm khoảng 15 tỷ đồng tính đến thời điểm hiện tại khi NHNN tăng tỷ giá 2%.

Tác động đến các doanh nghiệp nhập khẩu nguyên vật liệu thô trả bằng USD

Việc giảm giá của VND có thể tác động đến các doanh nghiệp phải nhập khẩu nguyên vật liệu, điển hình là các doanh nghiệp dược phẩm như Dược Hậu Giang (DHG), Domesco (DMC) và Traphaco (TRA).

VND giảm giá thêm 1% có thể chưa đủ sức để tác động tiêu cực đến các công ty này, nhưng nếu VND bị giảm giá nhiều hơn có thể sẽ tác động đến biên lợi nhuận. Những tác động này có thể được nhận thấy tại thời điểm năm 2016 do các công ty này thường mua trước nguyên liệu từ 6 - 12 tháng.

Các công ty sản xuất thép cũng chịu ảnh hưởng một phần từ việc giảm giá VND do họ cần USD để nhập khẩu nguyên liệu, nhưng không có nhiều nguồn thu ngoại tệ tương ứng vì hầu hết các sản phẩm thép phục vụ cho thị trường nội địa. Trong khi đó, các công ty cũng có các khoản nợ vay ngắn hạn bằng USD.

Chẳng hạn, Tập đoàn Hoa Sen (HSG) có nguồn doanh thu đáng kể từ hoạt động xuất khẩu để giảm thiểu rủi ro giá nguyên liệu tăng do biến động tỷ giá, nhưng HSG chủ yếu xuất khẩu sang các nước ASEAN, không phải Mỹ.

Các khách hàng ở thị trường nước ngoài của HSG có thể nhạy cảm hơn khi USD mạnh lên. Bên cạnh đó, dư nợ bằng USD chiếm khoảng 75% tổng nợ vay và phần lớn là nợ vay ngắn hạn.

Tương tự, Tập đoàn Hòa Phát (HPG) có tỷ trọng nợ vay ngắn hạn bằng USD là 65% và phần lớn cũng là nợ vay ngắn hạn. Tỷ trọng doanh thu xuất khẩu của HPG thấp và Công ty không có nguồn thu bằng USD lớn. Trong năm 2014, HPG chỉ xuất khẩu khoảng 100.000 tấn phôi thép, chủ yếu sang Philippines. Tuy nhiên, nhờ quy trình sản xuất khép kín, HPG chỉ cần nhập khẩu quặng sắt. Quặng sắt chiếm khoảng 30% giá thành sản xuất và HPG hiện chỉ nhập khoảng 30% nhu cầu quặng.

Tác động đối với doanh nghiệp có doanh thu xuất khẩu nhận USD

Các công ty cao su thiên nhiên sẽ được hưởng lợi trực tiếp từ việc đồng Việt Nam giảm giá. Xuất khẩu chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu doanh thu của những công ty này, trong khi hầu hết chi phí sản xuất được cung cấp trong nước. Bên cạnh đó, dư nợ vay của những công ty này, đặc biệt dư nợ bằng USD nhỏ, do đó việc  VND giảm giá không ảnh hưởng đáng kể lên dư nợ vay.

CTCP Cao su Tây Ninh (TRC) và CTCP Cao su Phước Hòa (PHR) là hai ví dụ điển hình trong trường hợp này. Doanh thu xuất khẩu của TRC đóng góp 40% vào tổng doanh thu trong năm 2014, trong khi tỷ lệ này của PHR là 35%.

Tại ngày 31/12/2014, toàn bộ dư nợ của TRC là bằng USD, nhưng tỷ lệ nợ vay trên vốn chủ sở hữu là rất nhỏ, chỉ 3,3%. Đối với PHR, tỷ lệ nợ trên vốn chủ sở hữu của Công ty tại thời điểm 31/12/2014 là 33% và hầu hết dư nợ là bằng tiền đồng.

Các doanh nghiệp dệt may và thủy sản cũng sẽ được hưởng lợi do doanh thu xuất khẩu nhận USD tăng khi quy đổi về VND. Tuy nhiên, chúng tôi cho rằng, tác động tăng tỷ giá sẽ không đáng kể, bởi với các doanh nghiệp có nguồn doanh thu lớn từ các thị trường thanh toán bằng USD như TCM (58% doanh thu xuất khẩu đến Mỹ) hoặc TNG (47% doanh thu xuất khẩu đến Mỹ) sẽ hưởng lợi khi VND giảm giá.

Tuy nhiên, đối với các thị trường khác như châu Âu, Trung Quốc, Nhật Bản, mặc dù các hợp đồng có thể thu về bằng USD, nhưng do đồng tiền tại các nước này yếu đi, dẫn đến việc nhu cầu nhập khẩu sản phẩm Việt Nam giảm xuống.

Nói cách khác, sản lượng nhập khẩu từ các thị trường này có thể bị giảm đi hoặc người mua sẽ yêu cầu giá bán rẻ hơn. Bên cạnh đó, đầu vào của dệt may là bông hoặc sản phẩm thức ăn chăn nuôi chủ yếu vẫn phải nhập khẩu. Do đó, nhiều khả năng chi phí đầu vào tăng lên khi VND giảm giá, tương ứng với mức tăng của doanh thu.

Tin bài liên quan