Trước hết, xin chúc mừng cá nhân ông và Ban chỉ đạo xây dựng Báo cáo Việt Nam 2035 đã hoàn thành nhiệm vụ của mình. Ông có thể cho biết, điểm nhấn quan trọng nhất của Báo cáo Việt Nam 2035 là gì?
Đó là Báo cáo đã đánh giá, xác định nền kinh tế Việt Nam đang ở đâu trong khu vực và trên thế giới, đồng thời phân tích và đánh giá khái quát về môi trường quốc tế, với những xu thế lớn tác động đến kinh tế toàn cầu, khu vực và Việt Nam. Từ đó, đưa ra những mục tiêu khát vọng của Việt Nam đến năm 2035, xác định những cản trở đối với sự phát triển của Việt Nam hiện nay và kiến nghị, đề xuất bằng cách nào để Việt Nam đạt tới mục tiêu của mình.
Vậy thì Việt Nam đang ở đâu và khát vọng 2035 của Việt Nam là gì, thưa ông?
Việt Nam, có thể nói, là một câu chuyện thành công lớn trong quá trình phát triển. Sau gần ba thập kỷ kể từ khi bắt đầu Đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu đầy ấn tượng về tăng trưởng kinh tế, đồng thời đảm bảo được công bằng và ổn định.
Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân đầu người đạt 5,5%/năm kể từ năm 1990 (tính theo sức mua tương đương bằng USD năm 2011), làm cho thu nhập trung bình tăng 3,5 lần. So sánh trên thế giới, kết quả này chỉ đứng sau Trung Quốc. Đồng thời, tăng trưởng cũng rất ổn định và bao phủ rộng rãi, đem lại lợi ích cho tuyệt đại đa số người dân.
Đến năm 2015, đất nước đã chuyển biến hoàn toàn và trở thành một nền kinh tế năng động, có thu nhập trung bình thấp. Nhờ tăng trưởng cao và thành quả được chia sẻ cho mọi người dân, các lĩnh vực xã hội đã được cải thiện đáng kể…
"Mục tiêu đến năm 2035, GDP bình quân đầu người đạt tối thiểu 18.000 USD, gần tương đương với mức của Malaysia năm 2010; trên 50% người dân sống ở khu vực đô thị; tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ chiếm trên 90% GDP; trên 70% lao động làm việc trong nền kinh tế…"
Tuy nhiên, Việt Nam vẫn thua kém trong một số lĩnh vực. Chẳng hạn, năng suất lao động thấp; mặc dù tránh được tình trạng bất bình đẳng gia tăng mạnh như tại các quốc gia tăng trưởng cao khác nhưng khoảng cách giàu nghèo vẫn còn lớn; tăng trưởng kinh tế phần lớn đạt được với những phí tổn về môi trường; thiết chế công ở Việt Nam chưa đáp ứng được yêu cầu ngày càng tăng của nền kinh tế thị trường và khát vọng của một xã hội trung lưu đang dần lớn mạnh…
Trong khi đó, Việt Nam đang có khát vọng trở thành một nền kinh tế công nghiệp hóa - hiện đại hóa - tiếp bước các nền kinh tế Đông Á đã hoàn thành chặng đường chuyển đổi trở thành quốc gia thu nhập trung bình cao hoặc thu nhập cao. Một số tiêu chí cụ thể đã được đề xuất, đó là GDP bình quân đầu người đạt tối thiểu 18.000 USD (tính theo sức mua tương đương bằng USD năm 2011), gần tương đương với mức của Malaysia năm 2010, nghĩa là tốc độ tăng trưởng GDP đầu người tối thiểu phải đạt 6%/năm; trên 50% người dân sống ở khu vực đô thị; tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ chiếm trên 90% GDP; trên 70% lao động làm việc trong nền kinh tế… Cùng với đó, tỷ trọng đóng góp của khu vực kinh tế tư nhân trong GDP chiếm tối thiểu 80%, một sự thay đổi hoàn toàn so với trước đây…
Một khát vọng, hay nói đúng hơn là một mục tiêu đầy thách thức, thưa ông… Liệu Việt Nam có thể làm được điều đó hay không và bằng cách nào?
Chặng đường cải cách 30 năm qua đã thu được nhiều thành công. Khát vọng phát triển đất nước trong 20 năm tới rất lớn lao và triển vọng Việt Nam bước vào một quỹ đạo tăng trưởng mới ở mức cao là hoàn toàn có thể. Tuy vậy, thách thức phải vượt qua cũng vô cùng lớn. Vấn đề đặt ra làm thế nào để hiện thực hóa khát vọng đó?
Chúng tôi cũng rất hiểu điều này và đã đề cập trong Báo cáo 6 chuyển đổi lớn, hay nói cách khác là 6 đột phá cần phải thực hiện. Đó là xây dựng thể chế hiện đại; hiện đại hóa nền kinh tế và phát triển khu vực tư nhân trong nước có năng lực cạnh tranh cao; phát triển năng lực đổi mới sáng tạo; thúc đẩy hòa nhập xã hội; tăng trưởng có khả năng chống chịu với khí hậu và chuyển dịch không gian phát triển.
6 đột phá trên là cơ sở cho việc hiện thực hóa khát vọng, đồng thời cũng chính là những mục tiêu cần đạt tới vào năm 2035, bao gồm trong ba trụ cột là thịnh vượng về kinh tế đi đôi với bền vững về môi trường; công bằng và hòa nhập xã hội; năng lực và trách nhiệm giải trình của nhà nước.
Trong Báo cáo, chúng tôi đã đề cập cụ thể về ba trụ cột này. Ở đây, tôi muốn nhấn mạnh nhiều hơn tới trụ cột thứ nhất - thịnh vượng về kinh tế đi đôi với bền vững về môi trường.
"Để tiếp tục duy trì hướng tới sự thịnh vượng trong tương lai, bên cạnh việc phải tăng năng suất, Việt Nam cần cải cách thể chế, trong đó tăng cường năng lực quản trị nhà nước và trách nhiệm giải trình trước việc thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội."
Hiến pháp 1992 và 2013 đã xác định mục tiêu to lớn và đầy khát vọng trong tương lai của Việt Nam, đó là “dân giàu, nước mạnh”. Các văn kiện của Đảng và Chính phủ cũng đặt mục tiêu tăng trưởng GDP bình quân đầu người 7%/năm, tương đương tăng trưởng GDP 7-8% đề ra trong Chiến lược Phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020. Để đạt được mục tiêu này và tiếp tục duy trì hướng tới sự thịnh vượng trong tương lai, con đường duy nhất là phải tăng năng suất. Hiện năng suất lao động của Việt Nam ở mức rất thấp so với các quốc gia trong khu vực.
Bên cạnh đó, phải tập trung cao độ thúc đẩy sự phát triển doanh nghiệp trong nước, chủ yếu là doanh nghiệp tư nhân Việt Nam, cả về số lượng và chất lượng, coi đây là nhiệm vụ của bộ máy các cấp. Phải thúc đẩy mạnh mẽ tinh thần khởi nghiệp, tăng cường cải cách và tích cực đẩy mạnh tinh thần học hỏi và đổi mới sáng tạo…
Chúng tôi cho rằng, một khu vực tài chính ổn định, quy định pháp luật chặt chẽ và thị trường đất đai minh bạch, vận hành tốt cũng là những điều kiện thiết yếu…
Điều quan trọng, trong quá trình phát triển, Việt Nam cần bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, khai thác các nguồn năng lượng sạch hơn và lồng ghép khả năng chống chịu với biến đổi khí hậu vào kế hoạch kinh tế, các chính sách ngành và đầu tư kết cấu hạ tầng nhằm giảm thiểu những rủi ro do biến đổi khí hậu gây ra…
Ngoài ra, một vấn đề rất quan trọng để thực hiện mục tiêu nêu trên là cải cách thể chế, trong đó tăng cường năng lực quản trị nhà nước và trách nhiệm giải trình trước việc thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội là một trong những trọng tâm.
Rất nhiều việc cần phải làm để Việt Nam có thể thực hiện khát vọng 2035. Còn nếu không thực hiện được thì sao, thưa ông?
Ban biên tập Báo cáo cũng đã nhận rõ rất nhiều khó khăn, thách thức và rủi ro khi thực hiện khát vọng 2035, do vậy trong phần kết luận của Báo cáo cũng đã ghi rõ: “Việt Nam đang đứng trước bước ngoặt của cải cách và phát triển. Thời cơ và thuận lợi rất lớn, nhưng thách thức và khó khăn cũng không hề nhỏ. Để đạt được khát vọng 2035, lựa chọn duy nhất của Việt Nam là thực hiện cải cách dựa trên ba trụ cột nêu trên. Không thực hiện được những cải cách đó, Việt Nam không thể khai thác được cơ hội, cũng không thể vượt qua thách thức, và nguy cơ tụt hậu xa hơn, rơi vào bẫy thu nhập trung bình sẽ khó có thể tránh khỏi”.
Nhưng chúng tôi tin rằng, những thế hệ người Việt Nam hiện nay và tương lai chắc chắn có đủ ý chí, bản lĩnh và năng lực để thực hiện thành công công cuộc cải cách, hướng tới một Việt Nam thịnh vượng, sáng tạo, công bằng và dân chủ.
Chúng tôi cũng hy vọng Báo cáo Việt Nam 2035, một tài liệu khoa học đề cập đến vấn đề lớn nhất của quốc gia là cải cách để phát triển, sẽ là tài liệu hữu ích, có giá trị đối với các nhà lãnh đạo, các nhà quản lý, các nhà hoạch định chính sách… trong quá trình cải cách, Đổi mới giai đoạn tiếp theo.