Bà Trần Thị Khánh Hiền, Giám đốc Khối Nghiên cứu, Công ty Chứng khoán MB (MBS)
Qua báo cáo tài chính quý II/2024 của các ngân hàng đã được công bố, theo bà, lợi nhuận 6 tháng đầu năm của nhóm này chủ yếu đến từ lĩnh vực nào?
Sau đà khởi động chậm chạp trong quý đầu năm, kết quả kinh doanh của ngành ngân hàng đã chuyển biến tích cực hơn trong quý II. Theo thống kê báo cáo của hơn 20 ngân hàng thương mại cổ phần niêm yết, tổng thu nhập hoạt động (TOI) trong quý II tăng gần 16% so với cùng kỳ, cao hơn so với mức tăng khiêm tốn chỉ 7,6% trong quý trước đó. Trong đó, thu nhập lãi thuần tăng 19%, cao hơn gấp đôi so với mức 8,1% trong quý I.
Động lực thúc đẩy tăng trưởng thu nhập từ lãi của các ngân hàng chủ yếu đến từ việc tín dụng bắt đầu tăng tốc từ tháng 4 và đạt xấp xỉ 6% tính đến cuối tháng 6. Nhiều ngân hàng đã ghi nhận tăng trưởng tín dụng cao trong 6 tháng đầu năm như HDB, LPB, MSB, TCB…
Theo quan sát của bà, có điểm nào cần chú ý trong báo cáo tài chính quý vừa qua của nhóm ngân hàng?
Biên lãi ròng (NIM) quý II có xu hướng cải thiện nhẹ so với quý I và tăng mạnh 30 điểm cơ bản so với cùng kỳ năm trước. Theo khảo sát của chúng tôi, có 12/23 ngân hàng ghi nhận NIM quý II tăng so với cùng kỳ năm ngoái; trong đó, nhiều ngân hàng có tỷ trọng cho vay tiêu dùng lớn đang có sự cải thiện NIM đáng kể. Nguyên nhân NIM tăng nhẹ chủ yếu do chi phí vốn giảm khi lượng tiền gửi với lãi suất cao trong giai đoạn đầu năm 2023 đã dần đáo hạn. Đồng thời, lãi suất cho vay đầu ra cũng có xu hướng giảm. Đây là kết quả của hàng loạt nỗ lực từ Ngân hàng Nhà nước trong 6 tháng đầu năm nhằm hạ lãi suất cho vay hỗ trợ cho các doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn, bao gồm ban hành Thông tư 06/2023/TT-NHNN mở rộng quy định cho khách hàng trả nợ tại tổ chức tín dụng khác nhằm tạo điều kiện cho khách hàng tiếp cận thêm vốn tín dụng tại ngân hàng khác; yêu cầu các ngân hàng thương mại công bố lãi suất các khoản vay mới… Các động thái này làm tăng sự cạnh tranh của thị trường tín dụng, dẫn đến việc lãi suất cho vay hạ nhiệt.
Thu nhập ngoài lãi của ngành ngân hàng vẫn chưa có dấu hiệu khởi sắc khi chỉ tăng 4% trong quý II và gần 5% trong 6 tháng đầu năm. Trong bối cảnh hoạt động bán chéo bảo hiểm (bancassurance) vẫn còn khó khăn, thị trường trái phiếu doanh nghiệp chưa khởi sắc, tỷ trọng thu nhập ngoài lãi của các ngân hàng thương mại nói chung chỉ chiếm khoảng 20% tổng thu nhập, thu hẹp đáng kể so với con số xấp xỉ 25% trong giai đoạn 2020 - 2022. Vì vậy, việc cải thiện biên lãi ròng (NIM) đóng vai trò hết sức quan trọng đối với các ngân hàng trong những tháng cuối năm nhằm nâng cao các chỉ số hiệu quả sinh lời.
6 tháng đầu năm, LPBank ghi nhận lợi nhuận trước thuế 5.919 tỷ đồng, tăng trưởng 142% so với cùng kỳ |
Bên cạnh câu chuyện đẩy mạnh cho vay và tối ưu NIM, báo cáo tài chính cũng cho thấy chất lượng tài sản là yếu tố cần quan tâm hàng đầu của ngành ngân hàng hiện nay?
Đúng vậy, tỷ lệ nợ xấu trung bình của các ngân hàng niêm yết ở mức 2,4%, đi ngang so với quý I/2024, song tăng thêm 0,3% so với cuối năm 2023. Mặc dù vậy, tỷ lệ bao phủ nợ xấu - một trong những chỉ số quan trọng đánh giá chất lượng tài sản, đang suy giảm đáng kể. Chi phí trích lập dự phòng trong quý II tăng 16% so với cùng kỳ, cao hơn so với mức tăng 5% của quý I, chứng tỏ các ngân hàng tăng cường trích lập dự phòng hơn. Song ước tính tỷ lệ bao phủ nợ xấu trung bình vẫn trên đà giảm xuống mức 74%, từ mức 80% cuối quý I và 87% cuối năm 2023. Điều này chứng tỏ một mặt các ngân hàng đẩy mạnh trích lập dự phòng, mặt khác phải tăng cường xóa nợ nhằm duy trì tỷ lệ nợ xấu ở mức như hiện nay. Đáng chú ý, tỷ lệ bao phủ nợ xấu của một vài ngân hàng đã rơi xuống mức dưới 50% ở thời điểm cuối quý II, con số này là đáng lo ngại.
Nhìn chung, lợi nhuận sau thuế quý II/2024 của các ngân hàng niêm yết tăng hơn 20% so với cùng kỳ, đưa lợi nhuận lũy kế 6 tháng đầu năm tăng khoảng 15%. Đây cũng là thành quả của việc các ngân hàng đẩy mạnh tín dụng cũng như tối ưu hiệu quả hoạt động (tỷ lệ CIR giảm).
Trong những tháng còn lại của năm 2024, theo bà, hoạt động của ngành ngân hàng có những thuận lợi và khó khăn ra sao?
Nhìn về những tháng cuối năm, tâm điểm của ngành ngân hàng chủ yếu sẽ xoay quanh câu chuyện tăng trưởng tín dụng và tăng cường trích lập dự phòng. Tăng trưởng tín dụng nhiều khả năng sẽ đạt mục tiêu 14% trong năm nay nhờ nhu cầu vốn sẽ tăng theo đà phục hồi của nền kinh tế.
Tăng trưởng GDP của Việt Nam đạt 6,9% trong quý II, vượt qua hầu hết các dự báo thị trường trước đó (khoảng 6,1 - 6,5%). Đây cũng là mức tăng trưởng tốt nhất kể từ quý III/2022, thúc đẩy bởi xuất khẩu mạnh mẽ và sự phục hồi của ngành sản xuất. Chỉ số PMI của Việt Nam đạt 54,7 điểm trong tháng 7, đánh dấu tháng thứ 5 chỉ số này trên mức 50 điểm, thể hiện sự gia tăng của số lượng đơn hàng đặt mới. Lũy kế 7 tháng đầu năm, xuất khẩu tăng gần 16%, trong khi nhập khẩu tăng 18,5% so với cùng kỳ, đánh dấu sự gia tăng trở lại của nhu cầu tiêu dùng và sản xuất trong nước.
Tuy nhiên, thời điểm này, năng lực đẩy mạnh tín dụng sẽ có sự phân hóa mạnh mẽ giữa các ngân hàng. Các ngân hàng có chất lượng tài sản tốt (tỷ lệ nợ xấu thấp, tỷ lệ bao phủ nợ xấu cao) sẽ có nhiều dư địa cho vay hơn. Điều này cũng thể hiện rõ trong 6 tháng đầu năm, có ngân hàng ghi nhận tăng trưởng tín dụng hai chữ số, song cũng có ngân hàng chỉ giải ngân cho vay thêm 2 - 3% so với cuối năm 2023. Đây đều là các ngân hàng có tỷ lệ bao phủ nợ xấu thấp hơn 50% và tỷ lệ nợ xấu trên 3%.
Tôi cho rằng, NIM chung của ngành ngân hàng sẽ chưa thể cải thiện trong các quý còn lại của năm 2024, điều này xuất từ một số nguyên nhân:
Thứ nhất, lãi suất huy động đã hoàn thành chu kỳ giảm và sẽ tạo đáy trong nửa sau năm 2024. Thực tế, từ tháng 4, nhiều ngân hàng thương mại đã bắt đầu tăng lãi suất huy động, Tính đến ngày 31/7/2024, đã có 20 ngân hàng (bao gồm 5 ngân hàng lớn: MBB, VPB, ACB, STB và BIDV) điều chỉnh lãi suất huy động với mức tăng từ 0,1 - 0,7%/năm, thậm chí lãi suất ở một vài ngân hàng đã vượt mốc 6%/năm trong bối cảnh tăng trưởng tín dụng đang tăng nhanh gấp 3 lần so với tốc độ tăng của huy động vốn. Điều này đã khiến các ngân hàng ráo riết tăng lãi suất huy động nhằm nâng cao tính cạnh tranh của kênh tiết kiệm so với các kênh đầu tư khác trên thị trường. Nhìn chung, dự báo lãi suất huy động kỳ hạn 12 tháng của các ngân hàng thương mại lớn có thể nhích thêm 50 - 70 điểm cơ bản, quay về mức 5,2 - 5,5%/năm trong nửa sau năm 2024.
Thứ hai, lãi suất đầu vào tăng song lãi suất cho vay sẽ chưa bắt nhịp với đà tăng mà sẽ vẫn duy trì ở mặt bằng hiện tại trong bối cảnh các cơ quan quản lý và ngân hàng nỗ lực hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn.
Chi phí dự phòng vẫn sẽ tiếp tục tăng trong 2 quý còn lại của năm, khi nhiều ngân hàng cần phải nỗ lực đưa tỷ lệ bao nợ xấu quay trở lại ngưỡng tích cực hơn. Chúng tôi ước tính lợi nhuận ngành ngân hàng sẽ tăng lần lượt 20% và 30% trong quý III và quý IV, trên nền thấp của cùng kỳ năm ngoái. Với tương quan tăng trưởng lợi nhuận này, định giá của các cổ phiếu ngân hàng vẫn đang ở mức hấp dẫn khi P/B hiện chỉ ở mức 1,5 lần, thấp hơn so với trung bình 3 năm gần đây. Vì vậy, ngân hàng sẽ là một trong những ngành tiêu điểm cho câu chuyện đầu tư những tháng cuối năm.