Theo các chuyên gia, cuộc cách mạng công nghệ 4.0 đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự dịch chuyển lao động giữa các quốc gia. Đây là tín hiệu tích cực của thị trường lao động, nhưng cũng đặt ra không ít thách thức cho việc thực hiện các chính sách an sinh xã hội và đảm bảo quyền lợi cho người lao động.
Theo ông Mohammed Azman (Tổ chức An sinh xã hội Malaysia), hiện người lao động di cư khi đến làm việc ở một quốc gia khác thường chỉ quan tâm đến tiền lương và điều kiện làm việc, mà không quan tâm nhiều đến việc tham gia các chế độ bảo hiểm…
Đáng chú ý, lao động di cư là nữ đang chiếm tỷ lệ lớn với các công việc thiếu ổn định, thu nhập thấp như giúp việc gia đình, chăm sóc bệnh nhân, lao công, nông nghiệp…
Điều này đòi hỏi các quốc gia cần nhanh chóng có những giải pháp để thay đổi nhận thức, đảm bảo quyền lợi cho đối tượng lao động di cư. Để làm tốt điều này, việc ký kết các hiệp định song phương, đa phương giữa các quốc gia về bảo hiểm xã hội là điều kiện tiên quyết, quan trọng nhất.
Cùng chung quan điểm, ông Kim Young Eil, Giám đốc Trung tâm phụ trách các vấn đề quốc tế tại Hàn Quốc (NPS) chia sẻ: “Để đảm bảo quyền lợi về an sinh xã hội cho lao động di cư, các quốc gia cần có hiệp định về an sinh xã hội với các quốc gia khác.
Ông Kim Young Eil.
Chẳng hạn, Hàn Quốc hiện có lao động làm việc tại 194 quốc gia nên ký Hiệp định An sinh xã hội (SSA) với các quốc gia này nhằm giải quyết và đảm bảo các quyền lợi an sinh xã hội cho người lao động Hàn Quốc khi làm việc ở nước ngoài, hoặc sau khi về nước".
Ông Kim Young Eil đưa ra minh chứng, một số người lao động đã làm việc 8 năm tại Mỹ và đã nộp thuế an sinh xã hội với tổng số tiền 122.400 USD, nhưng do chưa đóng đủ thời gian tối thiểu 10 năm để hưởng chế độ hưu trí của Mỹ, nên không đủ điều kiện nhận lương hưu.
Tương tự, tại châu Á, lao động khu vực này gặp khó khăn trong việc nhận quyền lợi hưu trí từ nước ngoài, vì thời gian được bảo hiểm của họ thường dưới 10 năm.
Nếu một người đủ điều kiện nhận lương hưu ở một nước khác, nhưng quay lại nước mình, khoản lương hưu đó có thể bị giảm hoặc không được trả về nước đó.
“Có thể thấy, nếu không có SSA thì người lao động sẽ chịu rất nhiều thiệt thòi về an sinh xã hội. SSA sẽ giúp loại bỏ bảo hiểm kép, đóng ở cả 2 nước, giảm bớt gánh nặng tài chính đối với lao động ở nước ngoài, hoặc những người tự làm việc ở nước ngoài. Người lao động đủ điều kiện nhận chế độ hưu trí thông qua tổng thời gian bảo hiểm và đảm bảo rằng công nhân nước ngoài được đối xử bình đẳng với công dân của nước ký kết hợp đồng…”, ông Kim Young Eil nhấn mạnh.
Tuy nhiên, các chuyên gia cũng nhận định, để ký kết được các hiệp định về an sinh xã hội còn gặp không ít rào cản, thách thức. Các hiệp định thường mất rất nhiều thời gian để hoàn thiện, ký kết, nhất là khi một số quốc gia không tìm được tiếng nói chung.
Châu Á nói chung và ASEAN nói riêng có rất nhiều hệ thống, mô hình về an sinh xã hội với sự khác biệt lớn. Bên cạnh đó, tại nhiều quốc gia, hệ thống an sinh xã hội cũng chưa hoàn thiện, độ bao phủ còn thấp, nên chưa đủ nguồn lực, hoặc thiếu kinh nghiệm trong bảo vệ quyền lợi cho lao động di cư.
Dẫn chứng từ Việt Nam, ông Đinh Duy Hùng, Phó trưởng Ban Thu (Bảo hiểm Xã hội Việt Nam) chia sẻ, lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài thường thuộc nhóm đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện.
Ông Đinh Duy Hùng.
Hiện, Việt Nam có 231.000 người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện, còn rất thấp so với con số 18 triệu lao động phi chính thức.
Việc mở rộng độ bao phủ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế cho nhóm đối tượng này có nhiều thuận lợi khi hệ thống pháp luật đã cơ bản hoàn thiện. Tuy nhiên, vẫn có không ít khó khăn, thách thức, nhất là khi điều kiện kinh tế còn hạn chế.
Ông Hùng cũng cho rằng, trong xu thế dịch chuyển lao động, Việt Nam hiện có khoảng 500.000 người đi làm việc tại nước ngoài và con số sẽ tăng lên hàng trăm ngàn người mỗi năm.
Tuy nhiên, mới có khoảng 6.000 người trong nhóm đối tượng này tham gia bảo hiểm xã hội, trong khi chưa có phương pháp quản lý hiệu quả về bảo hiểm xã hội…
Tìm lời giải cho bài toán đảm bảo an sinh xã hội đối với lao động di cư, các chuyên gia cho rằng, các quốc gia cần nhanh chóng ký kết các thỏa thuận song phương, đa phương về bảo vệ lao động di cư; loại bỏ các quy định về phân biệt đối xử quốc tịch; tuân thủ các nguyên tắc quốc tế về lao động di cư; giúp đỡ lao động di cư tiếp cận dần với các chính sách an sinh xã hội của quốc gia tiếp nhận lao động…
Theo ông Jens Schremmer, Trưởng Văn phòng Tổng Thư ký Hiệp hội An sinh xã hội Thế giới (ISSA), người lao động di cư thường làm việc ngắn hạn, nhiều biến động, ít quan tâm đến quyền lợi của mình.
Do vậy, công tác thống kê và truyền thông rất quan trọng. Bên cạnh đó, các chính sách cũng cần được thiết kế hấp dẫn hơn; cách tiếp cận đơn giản, thuận tiện hơn thông qua ứng dụng công nghệ thông tin để người lao động di cư dễ dàng tham gia, thụ hưởng các chế độ.
Ông Mohammed Azman cũng chia sẻ, người lao động di cư hiện đang là vấn đề nóng không chỉ ở các quốc gia châu Á, mà trên phạm vi toàn thế giới.
Hiện nay, ở Malaysia, thị trường lao động đã chịu sự phụ thuộc vào lao động di cư với con số tăng dần qua các năm (từ 1,8 triệu người được cấp phép năm 2014 tăng lên hơn 2,2 triệu người vào năm 2017). Ngoài ra, còn số lượng lớn đối tượng lao động không được cấp giấy phép.
“Đối với những lao động di cư được cấp giấy phép làm việc thì áp dụng theo quy định của Malaysia nhằm hướng tới sự bình đẳng cho người lao động nhập cư. Năm 2011, Malaysia đã sửa đổi Bộ luật Lao động, trong đó quy định chủ sử dụng lao động phải tuân thủ cơ chế người lao động nước ngoài hưởng công bằng với lao động trong nước”, ông Mohammed Azman nói.
Toàn cảnh Hội nghị ASSA 35.
Có thể thấy, lao động di cư đang là xu thế nóng toàn cầu. Lao động di cư cũng đang đóng góp rất lớn cho sự phát triển của từng quốc gia, vùng lãnh thổ.
Việc xây dựng các chính sách an sinh xã hội cho lao động di cư là một yêu cầu, đòi hỏi cấp thiết, chính đáng và có thể thực hiện được qua các hiệp định song phương, đa phương về an sinh xã hội, cũng như sự nỗ lực của mỗi quốc gia.
Phó tổng giám đốc Bảo hiểm Xã hội Việt Nam Trần Đình Liệu cho rằng, việc nắm bắt xu thế phát triển an sinh xã hội thế giới, tác động của cách mạng công nghệ 4.0 và tự do dịch chuyển lao động đến tái cơ cấu kinh tế, lao động, việc làm của mỗi quốc gia để xác định những yêu cầu đặt ra đối với hệ thống an sinh xã hội trong thời gian tới là hết sức quan trọng.
Ông Trần Đình Liệu.
“Qua hội thảo, chúng ta hiểu rõ hơn về nhu cầu của hệ thống đào tạo và đào tạo nghề thích ứng với đòi hỏi của thị trường lao động trong nền kinh tế số.
Các diễn giả đến từ WB, ISSA, ILO, New Zealand, Hàn quốc, Malaysia… đã chia sẻ nhiều kiến thức, kinh nghiệm về đảm bảo các chế độ an sinh cho người lao động, nhất là trong các ngành nghề phi biên giới, phi tập trung, cũng như người lao động di dân”, ông Liệu nói.
Đặc biệt, theo Phó tổng giám đốc Bảo hiểm Xã hội Việt Nam, thông tin mà các diễn giả cung cấp sẽ tạo cơ sở cho các chính phủ, các nhà hoạch định chính sách và hệ thống an sinh xã hội của các quốc gia trong khu vực tiếp tục hoàn thiện chính sách, nhằm đảm bảo cho người lao động, nhất là lao động di dân và các thành viên gia đình họ được hưởng đầy đủ các quyền lợi chế độ, để dễ dàng thích ứng với yêu cầu chuyển đổi của nền kinh tế, lao động và việc làm dưới tác động của cách mạng công nghệ 4.0.