Nhiều người cho rằng, lãi suất sẽ được cắt giảm vào cuối năm 2023, điều này sẽ giúp các nền kinh tế lớn của thế giới, quan trọng nhất là Mỹ, tránh được suy thoái kinh tế. Các nhà đầu tư đang định giá cổ phiếu cho một nền kinh tế Goldilocks (một nền kinh tế có mức tăng trưởng vừa phải), trong đó lợi nhuận của các công ty tăng trưởng lành mạnh trong khi chi phí vốn giảm xuống.
Trước những sự kiện đáng hoan nghênh này, chỉ số S&P 500 đã tăng gần 8% kể từ đầu năm. Chứng khoán châu Âu thậm chí còn tăng cao hơn, một phần nhờ mùa Đông ấm áp đã kìm hãm giá năng lượng. Tiền đã đổ vào các nền kinh tế mới nổi, những nền kinh tế đang được hưởng lợi kép từ việc Trung Quốc từ bỏ chính sách Zero Covid và đồng đô la giảm trở lại.
Đây là một bức tranh màu hồng. Nhưng, theo The Economist, thị trường có thể bị nhầm lẫn. Cuộc chiến với lạm phát còn lâu mới kết thúc. Điều đó có nghĩa là thị trường có thể phải đối mặt với một đợt điều chỉnh tồi tệ.
Để biết dấu hiệu cho thấy điều gì đã khiến các nhà đầu tư hy vọng, hãy xem xét số liệu giá tiêu dùng mới nhất của Mỹ được công bố vào ngày 14/2. Chúng cho thấy lạm phát trong 3 tháng tính đến tháng 1 thấp hơn bất kỳ thời điểm nào kể từ đầu năm 2021. Nhiều yếu tố ban đầu khiến lạm phát tăng cao đã hạ nhiệt. Chuỗi cung ứng toàn cầu không còn bị choáng ngợp bởi nhu cầu hàng hóa tăng cao, cũng như không bị gián đoạn bởi đại dịch. Giá dầu hiện đang thấp hơn so với trước khi xung đột Nga-Ukraine bắt đầu nổ ra vào một năm trước. Bức tranh lạm phát giảm được lặp lại trên khắp thế giới, lạm phát cơ bản đang giảm ở 25 trong số 36 quốc gia chủ yếu giàu có trong OECD.
Tuy nhiên, những biến động trong số liệu lạm phát tổng hợp thường che giấu xu hướng cơ bản. Lạm phát lõi của Mỹ (loại trừ giá thực phẩm và năng lượng dễ bay hơi) đã tăng 4,6% trong 3 tháng qua và đã bắt đầu tăng tốc ở mức nhẹ nhàng. Nguồn lạm phát chính hiện nay là lĩnh vực dịch vụ, lĩnh vực chịu ảnh hưởng nhiều hơn từ chi phí lao động. Ở Mỹ, Anh, Canada và New Zealand, tăng trưởng tiền lương vẫn cao hơn nhiều so với mục tiêu lạm phát 2% của các ngân hàng trung ương tương ứng; tăng trưởng lương thấp hơn ở khu vực đồng euro, nhưng tăng ở các nền kinh tế quan trọng như Tây Ban Nha.
Điều đó không có gì đáng ngạc nhiên với sức mạnh của thị trường lao động. Sáu nền kinh tế trong nhóm G7 đang có tỷ lệ thất nghiệp bằng hoặc gần với mức thấp nhất trong thế kỷ này. Do đó, lạm phát cơ bản khó có có thể tiêu tan trong khi thị trường lao động như vậy. Đây sẽ là một vấn đề lớn đối với các ngân hàng trung ương và cũng sẽ tạo ra một lỗ hổng trong tầm nhìn lạc quan của các nhà đầu tư.
Bất kể điều gì xảy ra tiếp theo, sự hỗn loạn của thị trường dường như có thể xảy ra. Trong những tuần gần đây, các nhà đầu tư trái phiếu đã bắt đầu hướng tới dự đoán rằng, các ngân hàng trung ương không cắt giảm lãi suất, mà giữ lãi suất ở mức cao. Nhưng lãi suất vẫn có thể ở mức cao mà không ảnh hưởng nghiêm trọng đến nền kinh tế, trong khi lạm phát tiếp tục giảm. Nếu điều đó xảy ra, thị trường sẽ được hỗ trợ bởi sự tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ. Tuy nhiên, lãi suất cao hơn liên tục sẽ gây ra tổn thất cho các nhà đầu tư trái phiếu và cổ phiếu.
Tuy nhiên, nhiều khả năng lãi suất cao sẽ gây tổn hại cho nền kinh tế. Trong kỷ nguyên hiện đại, các ngân hàng trung ương đã rất tệ trong việc thực hiện “hạ cánh mềm”, tức họ khó có thể hoàn thành một chu kỳ tăng lãi suất mà không có suy thoái kinh tế tiếp theo. Lịch sử có đầy những ví dụ về việc các nhà đầu tư dự đoán sai về sự tăng trưởng mạnh mẽ khi kết thúc đợt thắt chặt tiền tệ và một cuộc suy thoái ập đến. Điều đó đã đúng ngay cả trong những điều kiện ít lạm phát hơn ngày nay. Nếu Mỹ là nền kinh tế duy nhất rơi vào suy thoái, thì phần lớn phần còn lại của thế giới vẫn sẽ bị kéo xuống, đặc biệt nếu một “chuyến bay đến nơi an toàn” đã củng cố đồng đô la.
Cũng có khả năng là các ngân hàng trung ương không đủ can đảm để chịu đựng một cuộc suy thoái khi đối mặt với vấn đề lạm phát dai dẳng. Thay vào đó, họ có thể cho phép lạm phát vượt quá mục tiêu một chút. Trong ngắn hạn, điều đó sẽ mang lại lợi ích tích cực cho nền kinh tế. Nó cũng có thể mang lại lợi ích trong dài hạn, lãi suất sẽ ổn định cao hơn do lạm phát cao hơn, giúp lãi suất tránh được mức 0 một cách an toàn và mang lại cho các ngân hàng trung ương nhiều tiền tệ hơn trong cuộc suy thoái tiếp theo. Vì lý do này, nhiều nhà kinh tế cho rằng mục tiêu lạm phát lý tưởng là trên 2%.
Tuy nhiên, quản lý một sự thay đổi như vậy mà không gây ra sự tàn phá sẽ là một nhiệm vụ khó khăn đối với các ngân hàng trung ương. Họ đã dành cả năm qua để nhấn mạnh cam kết đối với các mục tiêu hiện tại. Do đó, việc từ bỏ một chính sách và thiết lập một chính sách khác sẽ là thách thức ngàn năm có một của các nhà hoạch định chính sách.
Vào những năm 1970, sự thiếu rõ ràng về các mục tiêu của chính sách tiền tệ đã dẫn đến những biến động mạnh trong nền kinh tế, gây tổn hại cho công chúng cũng như các nhà đầu tư. Do đó, cần phải có sự quyết đoán từ các ngân hàng trung ương.
Cho đến nay, các ngân hàng trung ương ở các nước giàu vẫn chưa có dấu hiệu đảo ngược xu hướng. Nhưng ngay cả khi lạm phát giảm hoặc họ từ bỏ việc chống lại nó, thì các nhà hoạch định chính sách cũng khó có thể thực hiện một chính sách xoay trục hoàn hảo. Cho dù đó là do lãi suất vẫn ở mức cao, suy thoái kinh tế xảy ra hay chính sách bước vào giai đoạn chuyển đổi lộn xộn, các nhà đầu tư có thể đều nhận lấy thất vọng.