Trong ngắn hạn, lãi suất có thể hạ tiếp, nhưng dư địa không còn nhiều

Trong ngắn hạn, lãi suất có thể hạ tiếp, nhưng dư địa không còn nhiều

Lãi suất, mong manh khả năng phá đáy

0:00 / 0:00
0:00
(ĐTCK) Nửa đầu tháng 11, lãi suất huy động của các ngân hàng tiếp tục giảm thêm, tiền đề để lãi suất cho vay tiếp tục giảm mạnh. Nhưng nhìn sang năm 2024, khả năng mặt bằng lãi suất phá đáy hay không vẫn còn để ngỏ.

Lãi suất tạo đáy mới

Tính từ đầu tháng 11 đến nay, đã có 22 ngân hàng thương mại giảm lãi suất huy động, gồm ACB, BacABank, BaoVietBank, DongABank, SHB, NCB, OCB, SCB, Kienlongbank, Eximbank, NamA Bank, OceanBank, PGBank, PVcomBank, Sacombank, Techcombank, TPBank, VietBank, VietA Bank, Vietcombank, VIB, và VPBank. Mức lãi suất tiền gửi cao nhất được các ngân hàng đưa về dưới 5,5%/năm cho kỳ hạn từ 6 - 12 tháng, kể cả ở những nhà băng quy mô vừa và nhỏ.

Hiện chỉ còn một vài ngân hàng áp dụng lãi suất huy động kỳ hạn 6 tháng ở mức 5,7%/năm, là HDBank, DongA Bank. Với kỳ hạn 12 tháng trở lên, chỉ một số ít nhà băng duy trì mức lãi suất tiền gửi cao nhất 6 - 6,2%/năm như VietABank. Tại khối ngân hàng có vốn Nhà nước chi phối và ngân hàng tư nhân Top đầu, lãi suất tiền gửi cao nhất chỉ trên dưới 5%/năm.

Lãi suất tiết kiệm tiếp tục giảm, theo TS. Nguyễn Hữu Huân, Trưởng bộ môn Tài chính, Trường đại học Ngân hàng TP.HCM, là do tăng trưởng tín dụng thấp, nhu cầu vốn chưa phục hồi, trong khi thanh khoản hệ thống khá dồi dào, buộc các ngân hàng phải giảm thêm lãi suất tiền gửi để giảm lãi suất cho vay, kích thích nhu cầu của thị trường.

Số liệu của Ngân hàng Nhà nước cho thấy, tính đến cuối tháng 10/2023, tín dụng đối với nền kinh tế đạt hơn 12,8 triệu tỷ đồng, tăng 7,39% so với cuối năm 2022.

Ngân hàng thừa vốn nên tích cực tung ra nhiều gói tín dụng ưu đãi. Theo ông Huân, trong bối cảnh cho vay chưa tăng trưởng mạnh, ngân hàng buộc cho vay, kể cả lãi suất thấp nhằm đảm bảo chi phí vốn huy động, nhưng với nhà băng lớn thì mức lãi suất cho vay 6 - 7%/năm vẫn có lợi nhuận, vì nguồn vốn huy động không kỳ hạn ở mức lãi suất thấp lớn, nên bình quân lãi suất vốn huy động ở mức thấp, khoảng 3 - 4%/năm. Do đó, nếu tín dụng khó tăng trưởng thì lãi suất cho vay sẽ còn giảm.

Không ít ngân hàng đã đưa các gói cho vay doanh nghiệp bổ sung vốn lưu động hoặc vay tiêu dùng với lãi suất từ 6,5%/năm đến dưới 7%/năm.

Phó Thống đốc thường trực Ngân hàng Nhà nước Đào Minh Tú cho biết, đến thời điểm hiện nay, mức lãi suất trung bình của những khoản cho vay mới có thể giảm 2 - 2,2%/năm. Còn một số khoản cho vay trước đây, khi các ngân hàng huy động lãi suất cao, lãi suất cho vay vẫn còn đang neo cao vì độ trễ của chính sách.

Với TTCK tới đây, thông tin lãi suất không tác động nhiều bằng việc lãi suất thấp tác động ra sao tới lợi nhuận của doanh nghiệp

Với TTCK tới đây, thông tin lãi suất không tác động nhiều bằng việc lãi suất thấp tác động ra sao tới lợi nhuận của doanh nghiệp

Khả năng phá đáy để ngỏ

“Ngân hàng Nhà nước sẽ xem xét giảm lãi suất điều hành khi có điều kiện để hỗ trợ doanh nghiệp”, ông Tú nhấn mạnh trong cuộc họp của ngành ngân hàng mới đây.

Ông Phạm Duy Hiếu, Quyền Tổng giám đốc ABBank dự báo, mặt bằng lãi suất huy động sẽ giảm thêm, còn lãi suất cho vay sẽ tiếp tục giảm thêm khoảng 1 - 1,5%/năm trong các tháng tiếp theo.

Nhưng theo ông Hiếu, lãi suất cũng chỉ là một khía cạnh để kích cầu tín dụng, rất cần đến các trợ lực khác. Đó là chính sách tài khóa, chính sách đầu tư, thương mại, bao gồm thúc đẩy giải ngân đầu tư công, kích cầu tiêu dùng nội địa, đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thương mại trong nước và quốc tế.

Lãnh đạo một ngân hàng tại TP.HCM cũng cho biết, lãi suất cho vay ngắn hạn phổ biến tại ngân hàng này ở mức 6,5 - 7%/năm, trung và dài hạn là 8,5 - 11,5%/năm. Sau khi khách hàng trả hết nợ cũ, tiếp tục vay mới sẽ được các ngân hàng giảm thêm 1 - 2%/năm.

Lãi suất có xu hướng giảm tiếp hay không, nhất là trong tầm nhìn đầu năm 2024 vẫn còn để ngỏ, với những nhận định khác nhau từ phía lãnh đạo ngân hàng thương mại cũng như chuyên gia kinh tế.

Trong bối cảnh ngân hàng đang tồn kho về vốn, mặt bằng lãi suất sẽ còn giảm thêm vào đầu năm 2024, vì thông thường, quý đầu năm, nhu cầu vốn yếu. TS. Nguyễn Trí Hiếu, chuyên gia tài chính - ngân hàng cũng cho rằng, lãi suất tiền gửi còn giảm tiếp. Thực tế, lãi suất tiết kiệm giảm sâu nhưng người dân vẫn gửi tiền vào ngân hàng vì họ không dám bỏ vốn vào các kênh đầu tư khác, nhất là khi thị trường bất động sản vẫn khó, thị trường chứng khoán biến động thất thường và tiềm ẩn rủi ro điều chỉnh.

Tuy nhiên, do mặt bằng lãi suất huy động và cho vay đang ở mức thấp nhất trong nhiều năm trở lại đây, nên nhận định được đưa ra từ các chuyên gia tài chính, mức giảm lãi suất trong thời gian tới rất thấp, vì không còn nhiều dư địa.

“Lãi suất đang ở mức thấp trong lịch sử nên khó có thể thấp hơn. Nếu giảm thêm, có thể tạo áp lực lên tỷ giá, thậm chí còn giảm hiệu quả công cụ chính sách tiền tệ”, TS. Nguyễn Hữu Huân nêu quan điểm.

Ông Trần Hoài Nam, Phó tổng giám đốc Ngân hàng HDBank cho rằng, hiện tại, không còn nhiều dư địa để giảm lãi suất. Giảm lãi suất cho vay có độ trễ hơn lãi suất tiền gửi, vì các ngân hàng thương mại đã có thời kỳ nâng lãi suất cho vay lên cao trong giai đoạn nền kinh tế khó khăn cuối năm 2022, đầu năm 2023. Bên cạnh đó, room tín dụng ở các ngân hàng đã sớm được Ngân hàng Nhà nước điều chỉnh từ tháng 7 vừa qua, khi các yếu tố vĩ mô tiến triển tích cực hơn cùng môi trường lãi suất thấp thì nhu cầu giải ngân vốn tín dụng sẽ tăng. Hiện tại, các ngân hàng thương mại đều thừa thanh khoản, nên theo ông Nam, lãi suất cho vay sẽ giảm dần từ nay đến cuối năm và sang quý I năm sau. Còn sau đó, rất khó để đưa ra dự báo trong thời gian dài, vì tùy thuộc vào biến động kinh tế vĩ mô trong nước và thế giới.

TS. Nguyễn Xuân Thành, Chuyên gia kinh tế Fulbright cho rằng, đồng USD đã không lên giá mạnh nữa sẽ không gây áp lực đến chính sách tiền tệ, tạo dư địa cho Ngân hàng Nhà nước duy trì chính sách tiền tệ mở rộng. Áp lực của giai đoạn 2024 - 2025 là lấy lại đà tăng trưởng kinh tế để đạt mục tiêu cả nhiệm kỳ nên các chính sách tài khóa, tiền tệ đều sẽ ưu tiên hỗ trợ tăng trưởng trong năm tới.

Ông Thành phân tích, mong muốn của nhà điều hành là như vậy, nhưng có làm được hay không còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố, bởi các ngân hàng trung ương đều điều hành chính sách theo hướng “dò đường”, với sự tự tin rất thấp và lo ngại khả năng mắc sai lầm cao, kể cả Cục Dự trữ liên bang Mỹ (Fed). Năm nay, tín dụng có thể tăng 11%, mục tiêu của năm sau là tăng 14 - 15% để hỗ trợ cho mục tiêu tăng trưởng GDP 6,5% trở lên. Việc duy trì chính sách tiền tệ nới lỏng phải duy trì, nhưng nới lỏng có thể đảo chiều khi chịu áp lực hai yếu tố: tỷ giá và lạm phát.

“Tức trong điều kiện bình thường, Ngân hàng Nhà nước sẽ cố gắng để không tăng lãi suất điều hành, nhưng nếu xuất hiện sức ép thì buộc phải thay đổi để thích ứng. Điều này phải quan sát từng tháng trong năm 2024 thì mới có thể phán đoán được”, ông Thành dự báo.

Để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, các chuyên gia phân tích tài chính cho rằng, cần tập trung sử dụng nhiều hơn chính sách tài khóa, đẩy mạnh các giải pháp kích cầu đầu tư, tiêu dùng, thay vì chỉ kích cung vốn hiện nay, trong khi sức hấp thụ vốn của nền kinh tế còn yếu.

Ông Quản Trọng Thành, Giám đốc Phân tích, Công ty Chứng khoán Maybank Investment Bank (MSVN)

Ông Quản Trọng Thành, Giám đốc Phân tích, Công ty Chứng khoán Maybank Investment Bank (MSVN)

Lạm phát của Mỹ giảm còn 3,2% trong tháng 10, thấp hơn mức 3,3% theo dự báo và 3,7% của tháng trước. Loại bỏ yếu tố giá lương thực, thực phẩm và năng lượng, lạm phát cơ bản cũng giảm còn 4,0% so với dự báo 4,1%. Hầu hết các thành phần trong rổ hàng hóa đều giảm tốc. Giá dịch vụ cơ bản (loại bỏ năng lượng) chỉ còn tăng 0,3% so với mức 0,6% của tháng trước, trong khi giá hàng hóa cơ bản (loại thực phẩm và năng lượng) giảm 0,1% so với mức giảm 0,4% tháng trước.

Lợi suất trái phiếu chính phủ Mỹ giảm ở hầu hết các kỳ hạn. Lợi suất trái phiếu 10 năm giảm 20 điểm cơ bản còn 4,44%. Chỉ số USD Index (DXY) sụt xuống dưới mức 105 điểm. Trong khi đó, chứng khoán Mỹ tăng vọt trước kỳ vọng chu kỳ thắt chặt tiền tệ của Fed đã kết thúc.

Chu kỳ tăng lãi suất của Fed nhiều khả năng đã kết thúc nhưng sẽ chưa có đợt cắt giảm nào ngay lập tức, do lạm phát vẫn chưa giảm về mức mục tiêu 2% của Fed và dữ liệu kinh tế Mỹ vẫn đang rất tốt. Dữ liệu từ thị trường tương lai cho thấy, thị trường đang kỳ vọng đợt giảm lãi suất sớm nhất là vào tháng 6/2024.

Việc Fed dừng tăng lãi suất làm giảm áp lực tỷ giá, qua đó, giúp Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tiếp tục duy trì chính sách tiền tệ nới lỏng. Tuy nhiên, với lãi suất Fed nhiều khả năng duy trì ở mức 5,25 - 5,50%/năm, MSVN không kỳ vọng Ngân hàng Nhà nước sẽ cắt giảm lãi suất chính sách thêm trong ngắn hạn, tránh làm áp lực tỷ giá quay trở lại, đặc biệt trong giai đoạn nhu cầu ngoại tệ cho xuất nhập khẩu tăng cao vào mùa mua sắm cuối năm.

Mặt bằng lãi suất huy động sẽ duy trì ở mức thấp như hiện nay trong ít nhất 9 tháng tới. Nhờ lãi suất huy động hạ, chi phí vốn bình quân của các ngân hàng sẽ giảm đáng kể trong các tháng tiếp theo, giúp các ngân hàng tăng tín dụng tốt hơn so với 3 quý vừa rồi và có thể cải thiện NIM.

Về dài hạn, mặt bằng lãi suất thấp luôn hỗ trợ cho các kênh đầu tư khác như thị trường chứng khoán, nhưng nhìn ở góc độ thông tin lãi suất thì có thể không còn tác động quá nhiều đến thị trường bằng việc lãi suất thấp sẽ hỗ trợ doanh nghiệp phục hồi sản xuất - kinh doanh, lợi nhuận ra sao.

Câu chuyện phục hồi lợi nhuận của doanh nghiệp vẫn là biến số quan trọng hơn cả với thị trường chứng khoán.

Bà Nguyễn Thị Phương Lam, Giám đốc Phân tích Công ty Chứng khoán Rồng Việt (VDSC)

Bà Nguyễn Thị Phương Lam, Giám đốc Phân tích Công ty Chứng khoán Rồng Việt (VDSC)

Dư nợ tín dụng trên tổng GDP của Việt Nam hiện trên 120%, cho thấy sự phụ thuộc lớn của nền kinh tế vào nguồn vốn ngân hàng.

Tiền gửi không kỳ hạn (CASA) của ngân hàng sau giai đoạn sụt rất mạnh và tạo đáy trong quý I đã phục hồi trong quý II. Trong quý III, biên lãi thuần (NIM) của các ngân hàng vẫn đi ngang, cho thấy hiệu ứng của việc huy động lãi suất cao vào cuối 2022 đã bắt đầu được tiêu hoá dần. Các ngân hàng đã bắt đầu điều chỉnh được lãi suất cho vay.

Tuy nhiên, VDSC kỳ vọng mức độ phục hồi NIM sẽ vừa phải. Năm nay, các ngân hàng nhận được sự hỗ trợ lớn từ chính sách. CASA, NIM hay tăng trưởng tín dụng sẽ phụ thuộc vào nền kinh tế trong năm sau. Với những kỳ vọng về việc nền kinh tế năm tới tốt hơn thì tổng thu nhập của các ngân hàng sẽ cao hơn.

Giai đoạn nóng nhất của lạm phát đã qua. Tại các nền kinh tế lớn như Mỹ, tốc độ tăng trưởng kinh tế giảm nhiệt, dĩ nhiên lạm phát sẽ giảm nhiệt theo và lãi suất có thể giảm hơn nữa. Tuy nhiên, lãi suất được đánh giá khó hạ thêm nhiều, việc phải sống với lạm phát cao còn kéo dài khá lâu nữa.

Nhìn lại 10 năm trước đây, các ngân hàng trung ương lớn cố đẩy lạm phát lên 2%, nhưng không nước nào đạt được. Tuy nhiên, 5 - 7 năm sau, các ngân hàng trung ương phải nỗ lực đẩy lạm phát xuống 2% nhưng không biết có khả thi hay không.

Trong khi đó, xuất hiện khá nhiều lý do khiến nền kinh tế toàn cầu chịu áp lực mới như chuỗi cung ứng bị nghẽn, làm hoạt động sản xuất đình trệ, khó khăn, mất hiệu quả; các xung đột địa chính trị gây ảnh hưởng tới các mặt hàng quan trọng như dầu thô. Sức nóng của lạm phát đã ở sau lưng nhưng chúng ta không nên chủ quan.

Tin bài liên quan