Tổng tài nguyên trữ lượng than Việt Nam đã được điều tra, đánh giá và thăm dò tính đến hết năm 2014 là 46.961,4 triệu tấn

Tổng tài nguyên trữ lượng than Việt Nam đã được điều tra, đánh giá và thăm dò tính đến hết năm 2014 là 46.961,4 triệu tấn

Kinh tế tăng tốc, ngành than điều chỉnh quy hoạch

(ĐTCK) Cần điều chỉnh quy hoạch để phù hợp với thực tế, đảm bảo cân đối cung cầu và an ninh năng lượng cho phát triển kinh tế. 

Đó là nhận định quan trọng được đưa ra tại Hội thảo khoa học Điều chỉnh Quy hoạch phát triển ngành than Việt Nam đến năm 2020 có xét triển vọng đến năm 2030 (Quy hoạch) do Bộ Công Thương vừa tổ chức.

Theo Thứ trưởng Bộ Công Thương Cao Quốc Hưng, Quy hoạch phát triển ngành than đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt theo Quyết định số 60 (Quy hoạch 60) đã và đang đảm bảo cung cấp đủ than cho phát triển kinh tế, tạo hiệu quả trong công tác điều hành, bảo vệ tài nguyên khoáng sản của đất nước. Tuy nhiên, đến nay, trước yêu cầu đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng kinh tế, nhu cầu sử dụng than của các hộ tiêu thụ lớn như nhiệt điện than, xi măng, hóa chất theo đó gia tăng.

Trong bối cảnh điều kiện thăm dò khai thác không thay đổi, trong khi kết quả thăm dò nguồn tài nguyên than gần đây cho thấy, khả năng đảm bảo tính hiện thực của Quy hoạch 60 có nhiều thay đổi, do đó cần sửa đổi, cập nhật quy hoạch này cho phù hợp với thực tế sản xuất - kinh doanh của ngành than và đáp ứng nhu cầu tăng trưởng kinh tế.

Bên cạnh đó, một vấn đề lớn đặt ra là Việt Nam tuy xuất khẩu than và dầu thô, song vẫn đang là nước nhập khẩu năng lượng. Trong điều kiện đó, mục đích quan trọng của việc sửa đổi Quy hoạch là để tài nguyên năng lượng của Việt Nam không chỉ thích ứng với biến đổi của thị trường, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế những năm tới, mà còn đảm bảo an ninh năng lượng lâu dài cho phát triển kinh tế.

Ông Lê Văn Duẩn, Phó giám đốc CTCP Tư vấn Đầu tư Mỏ và Công nghiệp - Vinacomin cho biết, Quy hoạch 60 điều chỉnh gồm 6 chuyên đề chính: tài nguyên, trữ lượng và công tác thăm dò; phân giao quản lý tài nguyên giữa Tập đoàn Công nghiệp Than và Khoáng sản Việt Nam (TKV) và Tổng công ty Đông Bắc; quy hoạch khai thác, sàng tuyển, vận tải ngoài và cảng xuất, nhập khẩu than; dự báo nhu cầu sử dụng than trong nước và cân đối cung cầu; nhu cầu nhập khẩu than và nguồn nhập khẩu; phân tích kinh tế, tài chính và các giải pháp thực hiện.

Về kết quả thăm dò cụ thể, ông Duẩn chia sẻ, tổng tài nguyên trữ lượng than Việt Nam đã được điều tra, đánh giá và thăm dò tính đến hết năm 2014 là 46.961,435 triệu tấn. Trong đó, trữ lượng và tài nguyên chắc chắn và tin cậy là 3.585,316 triệu tấn, chiếm 8%; tài nguyên dự tính là 2.296,329 triệu tấn, chiếm đạt 5% và tài nguyên dự báo là 41.079,727 triệu tấn, chiếm 87%. Tính đến hết năm 2014, ngành than đã triển khai thăm dò 27 đề án. Tuy khối lượng khoan thăm dò đạt thấp so với Quy hoạch giai đoạn đến 2015, song đã làm rõ thêm điều kiện địa chất và trữ lượng than, từ đó giúp nâng cấp tài nguyên trữ lượng phục vụ lập các dự án đầu tư mới.

Nhất trí về việc cần sửa đổi Quy hoạch 60, ông Trần Viêt Ngãi, Chủ tịch Hiệp hội Năng lượng Việt Nam nhấn mạnh, vấn đề quan trọng nhất trong Quy hoạch 60 điều chỉnh là phải xác định được nguồn than, sau đó mới tính đến các kế hoạch triển khai. Thực tế, vấn đề thăm dò trữ lượng than được đề cập từ nhiều năm qua, nhưng đến nay chưa hoàn thành, nguyên nhân chính là do những vướng mắc trong thủ tục cấp phép của Bộ Tài nguyên và Môi trường.

Theo Quyết định 549 năm 2012 của Thủ tướng về việc phê duyệt Quy hoạch phát triển ngành than, thì trong vòng 5 năm, ngành than phải hoàn thành công tác thăm dò, xây dựng được 28 mỏ mới, mở rộng 61 mỏ cũ. Tới nay, vấn đề thăm dò một lần nữa được nhắc lại trong Quy hoạch 60, nhưng mục tiêu hoàn thành kéo dài tới năm 2020. Để hoàn thành được mục tiêu này, ông Ngãi cho rằng, cùng với việc giao cho TKV và Tổng công ty Đông Bắc hoàn toàn đảm bảo công tác thăm dò trữ lượng, thì Chính phủ cần tạo cơ chế vốn cho các đơn vị này đầu tư mở mỏ mới và đưa ra thời hạn cụ thể hoàn thành.

Điều mà ông Ngãi băn khoăn hiện nay là cơ chế vốn. Theo tính toán của ông Ngãi, hiện ngành than đầu tư cho phát triển 10 mỏ, mỗi mỏ 20 triệu tấn/năm, thì 5 - 7 năm nữa sẽ có thêm 20 triệu tấn, cộng với 40 triệu tấn/năm hiện nay, sẽ đáp ứng nhu cầu 60 - 70 triệu tấn/năm cho thị trường. Tuy nhiên, nếu doanh nghiệp phải đi vay thì buộc phải có vốn đối ứng và đây là bài toán khó. Giả định, một năm đầu tư khoảng 40.000 - 50.000 tỷ đồng, ngành than phải có khoảng 10.000 tỷ đồng làm vốn đối ứng.

“Tới đây, việc nhập khẩu than sẽ vẫn khó, cần tận dụng tối đa sản xuất trong nước. Bộ Công Thương cần đề nghị Chính phủ tạo nguồn vốn đối ứng cho TKV và Tổng công ty Đông Bắc để đẩy mạnh khai thác từ nguồn trong nước”, ông Ngãi kiến nghị.

Một vấn đề khác được ông Ngãi đặc biệt lưu ý là xu hướng thế giới đang hạn chế nhiệt điện đốt than, nhưng Việt Nam lại tăng cường lĩnh vực này. Các nước phát triển như Nhật Bản, Hàn Quốc từ lâu chủ yếu dùng khí hóa lỏng để xây dựng nhà máy điện. Trong bối cảnh này, nếu Việt Nam không có một tầm nhìn bao quát toàn bộ ngành năng lượng, việc phát triển kinh tế giai đoạn tới sẽ gặp nhiều khó khăn. Do đó, ông Ngãi đề xuất Bộ Công Thương cần khẩn trương đề nghị Chính phủ lập quy hoạch tổng thể năng lượng quốc gia, trong đó nêu cụ thể quy hoạch các phân ngành.  

Tin bài liên quan