Vào cuối tháng 7/2023, Ấn Độ đã cấm xuất khẩu gạo trắng non-basmati và sau đó đưa ra mức giá bán tối thiểu đối với gạo basmati và mức thuế 20% đối với gạo đồ vào tháng 8.
Joseph Glauber, nhà nghiên cứu cao cấp tại Viện nghiên cứu Chính sách Lương thực Quốc tế (IFPRI) cho biết: “Thật khó khăn khi một quốc gia chiếm 40% thương mại toàn cầu đưa ra lệnh cấm đối với một nửa số lượng họ xuất khẩu và thuế đối với nửa còn lại”.
Hiện tại, khi vụ thu hoạch lúa gạo của Ấn Độ đang diễn ra, các nhà nhập khẩu gạo ròng đang hy vọng sản lượng sẽ tốt hơn dự kiến, vì điều này có thể khiến Chính phủ Ấn Độ nới lỏng các hạn chế. Tuy nhiên, một cuộc bầu cử sắp diễn ra ở Ấn Độ và giá lương thực là vấn đề nhức nhối đối với chính quyền Thủ tướng Narendra Modi. Hiện tượng thời tiết El Nino cũng có nguy cơ gây thiệt hại sản lượng trong năm tới do điều kiện trồng trọt có thể quá khô.
Các nhà phân tích cảnh báo rằng nếu Ấn Độ duy trì các hạn chế hiện tại và các quốc gia xuất khẩu gạo khác cũng có động thái tương tự, thế giới sẽ có nguy cơ lặp lại cuộc khủng hoảng gạo năm 2008 khi sự lây lan của các chính sách bảo hộ đã góp phần khiến giá gạo tăng gấp ba lần trong vòng sáu tháng, dẫn đến lạm phát trên toàn cầu và gây ra tình trạng bất ổn dân sự ở Bắc Phi, Nam Á và vùng Caribe.
Tuy nhiên, lần này cuộc khủng hoảng có thể tồi tệ hơn do nhu cầu tăng vọt, tăng trưởng dân số va chạm với những tác động của biến đổi khí hậu ngày càng khắc nghiệt hơn.
Giá gạo ở Thái Lan và Việt Nam - hai nước xuất khẩu gạo lớn thứ hai và thứ ba thế giới - đã tăng lần lượt là 14% và 22% kể từ khi Ấn Độ áp đặt lệnh cấm xuất khẩu vào tháng 7.
Arif Husain, nhà kinh tế trưởng tại Chương trình Lương thực Thế giới (WFP) của Liên hợp quốc chỉ ra rằng, các quốc gia có khả năng bị ảnh hưởng nặng nề nhất đang phải gánh chịu hàng loạt thách thức: giá lương thực tăng cao, nợ tăng vọt và tiền tệ mất giá.
Diễn biến giá gạo ở Ấn Độ, Thái Lan và Việt Nam |
Tích trữ, dự trữ và hỗn loạn
Trong quá khứ, Ấn Độ cũng là nước đầu tiên phản ứng vào năm 2007 khi giá các mặt hàng lương thực chủ yếu như lúa mì và ngô tăng mạnh do thời tiết xấu đe dọa sản lượng. Nguồn cung gạo dồi dào nhưng áp lực tăng giá lương thực khiến các chính phủ hoảng sợ. Ấn Độ sau đó đã nhanh chóng áp đặt các hạn chế xuất khẩu.
Việt Nam - khi đó là nhà cung cấp gạo lớn thứ hai thế giới sau Thái Lan - đã có động thái tương tự và áp đặt lệnh cấm vào tháng 1/2008. Giá gạo quốc tế tăng vọt, đạt mức cao kỷ lục 1.000 USD/tấn do các nước xuất khẩu nhỏ hơn như Ai Cập và Pakistan cũng áp đặt các lệnh cấm tương tự, dẫn tới hiện tượng tích trữ gạo trên diện rộng. Sự tức giận về giá lương thực kéo dài và cuối cùng kết hợp với sự bất mãn chính trị, sau đó góp phần gây ra phong trào Mùa xuân Ả Rập vào năm 2010.
Theo Chính phủ Ấn Độ, giá gạo đã tăng 11,5% trong năm nay trước khi lệnh cấm xuất khẩu được áp dụng. Giá các mặt hàng chủ lực khác của Ấn Độ như cà chua và hành tây cũng tăng trong những tháng gần đây do mùa mưa bất ổn đã làm gián đoạn sản xuất nông nghiệp.
Chính phủ Ấn Độ đã xem lệnh cấm như một bước cần thiết để bảo vệ an ninh lương thực trong nước trong bối cảnh lạm phát đáng lo ngại và mùa màng kém trầm trọng do thời tiết mà các nhà khoa học cho rằng đã trở nên thất thường hơn do biến đổi khí hậu.
Avinash Kishore, nhà nghiên cứu cấp cao tại IFPRI cho biết: “Chúng tôi cần thực hiện nhiều biện pháp phòng ngừa hơn vì các cuộc bầu cử cấp bang sắp diễn ra và các cuộc bầu cử quốc gia vào năm tới”.
Tuy nhiên, đối với nông dân trồng lúa Ấn Độ, lệnh cấm xuất khẩu là một đòn giáng nặng nề.
Những người chỉ trích chính sách này cho rằng lệnh cấm đột ngột sẽ làm tổn hại đến danh tiếng của đất nước như một đối tác thương mại toàn cầu đáng tin cậy. Dưới thời Thủ tướng Modi, Ấn Độ đã tìm cách củng cố vị thế cường quốc hàng đầu thế giới bằng cách mở rộng quan hệ thương mại và đàm phán các hiệp định thương mại tự do với các nền kinh tế lớn khác.
Ashok Gulati, nhà kinh tế và cố vấn lâu năm cho Chính phủ Ấn Độ về chính sách nông nghiệp cho biết: “Các nhà xuất khẩu phải mất nhiều năm để phát triển thị trường. Điều này không chỉ gây khó chịu cho các nhà xuất khẩu ở nước bạn mà còn gây khó chịu cho các nhà nhập khẩu, những người sẽ nói…bạn đang bàn giao thị trường cho các đối thủ cạnh tranh”.
Ngay bờ vực khủng hoảng
Động thái của Ấn Độ cũng đã thu hút sự chỉ trích trên toàn cầu. Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) đã kêu gọi Ấn Độ đảo ngược động thái này, và Mỹ cùng các quốc gia khác tại Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) vào tháng trước được cho là đã đặt câu hỏi về sự cần thiết của các biện pháp hạn chế trong khi lượng dự trữ công của Ấn Độ vẫn đủ.
Một trong những mối lo ngại chính là lệnh cấm xuất khẩu gạo có khả năng gây ra tác động lớn hơn cuộc khủng hoảng gạo trước đó.
Theo số liệu từ Bộ Nông nghiệp Mỹ được HSBC phân tích, không chỉ thị phần xuất khẩu gạo toàn cầu của Ấn Độ tăng lên, mà lượng gạo được giao dịch trên toàn thế giới còn tăng gấp đôi từ khoảng 5% năm 1999 lên hơn 10% hiện nay.
“Điều này làm cho sự lây lan toàn cầu có nhiều khả năng xảy ra hơn… Rủi ro chắc chắn là lặp lại những gì chúng ta đã thấy trong năm 2008”, Frederic Neumann, nhà phân tích của HSBC cho biết.
Các quốc gia khác ở châu Á đang theo bước Ấn Độ. Vào cuối tháng 8, Myanmar - nước xuất khẩu gạo lớn thứ năm thế giới - tuyên bố cũng sẽ cấm xuất khẩu ngũ cốc trong “khoảng 45 ngày”. Vài ngày sau, Philippines đưa ra mức trần giá gạo nhằm nỗ lực giảm chi phí tiêu dùng đang tăng cao.
Giá gạo tăng là trở ngại đáng kể cho các ngân hàng trung ương ở châu Á trong nỗ lực kiềm chế lạm phát.
Vào năm 2008, ban đầu các ngân hàng trung ương đã không thắt chặt chính sách tiền tệ để ứng phó với cú sốc nguồn cung gạo vì việc tăng lãi suất không tạo ra nhiều gạo hơn. Tuy nhiên, nhà phân tích Frederic Neumann lập luận rằng, họ cần phải làm như vậy vào khoảng thời gian này, vì lương thực đang có tác động không tương xứng đến kỳ vọng lạm phát, điều này quan trọng đối với các ngân hàng trung ương hơn là lạm phát thực.
“Mọi người đều biết giá một bao gạo ở Ấn Độ là bao nhiêu. Vì vậy, nếu giá tăng, điều đó ngay lập tức thúc đẩy kỳ vọng. Lúa không giống như rau có chu kỳ thu hoạch ngắn và có thể bổ sung nhanh chóng. Do đó, các ngân hàng trung ương có thể bỏ qua việc giá cà chua tăng trong 2 tháng nhưng không thể bỏ qua việc giá gạo tăng vọt trong 9 tháng”, ông cho biết.
Khu vực Đông Nam Á đang cố gắng bảo vệ nguồn cung cấp của chính mình. Mặc dù các quốc gia thành viên của ASEAN - bao gồm 3 trong số 5 nhà xuất khẩu gạo lớn nhất - đã cam kết không sử dụng các rào cản thương mại “phi lý” vào tháng 9, nhưng Bộ trưởng Nông nghiệp Malaysia đã nói với truyền thông trong tháng này rằng các nhà lãnh đạo ASEAN đã đồng ý ưu tiên cung cấp gạo cho các quốc gia Đông Nam Á.
Chủ nghĩa bảo hộ này đặt ra mối đe dọa đáng kể đối với các quốc gia ở Tây Phi, khu vực có nguy cơ bị ảnh hưởng tiêu cực bởi việc thiếu gạo. Họ đặc biệt dễ bị ảnh hưởng bởi lệnh cấm xuất khẩu của Ấn Độ. Ở Togo, gần 88% tổng lượng gạo nhập khẩu đến từ Ấn Độ vào năm 2022 và với Benin là 61% - nước nhập khẩu gạo tấm lớn nhất thế giới của Ấn Độ.
Thiếu hụt gạo
Cuộc khủng hoảng gạo năm 2007 chấm dứt sau khi Nhật Bản, Thái Lan và Việt Nam cam kết thúc đẩy xuất khẩu và chi phí vận chuyển giảm.
Các nhà phân tích cảnh báo rằng tình trạng khó khăn hiện nay không dễ dàng khắc phục được. Vì 15 năm trước thế giới không thiếu ngũ cốc, nhưng hiện nay không còn như vậy nữa.
Dân số thế giới dự kiến sẽ đạt gần 10 tỷ người vào năm 2050 với mức tăng trưởng lớn nhất ở châu Phi và châu Á. Các nhà nghiên cứu ước tính sự gia tăng này sẽ làm tăng nhu cầu về gạo lên gần 1/3, nhưng sản lượng không đáp ứng kịp.
Theo một nghiên cứu gần đây trên tạp chí học thuật Nature Food, sau nhiều thập kỷ tăng trưởng nhanh chóng nhờ phát triển các giống lúa mới, năng suất ở 4 quốc gia sản xuất lúa gạo lớn ở Đông Nam Á đang trì trệ. Theo dữ liệu từ Liên Hợp quốc, năng suất trung bình trên toàn cầu đã tăng 0,9%/năm trong giai đoạn 2011-2021, giảm so với mức 1,2%/năm trong giai đoạn 2001-2011.
Số ngày trong năm có nhiệt độ trên 35 độ C ở các quốc gia gia tăng do ảnh hưởng của biến đổi khí hậu |
Nguyên nhân chính dẫn đến sự thoái lui này là do biến đổi khí hậu. Bjoern Ole Sander, nhà khoa học khí hậu ở Thái Lan cho biết, vì lúa được trồng ở vùng có khí hậu nóng – 90% lúa gạo trên thế giới được sản xuất ở châu Á – nên người ta thường cho rằng việc tăng thêm một vài độ C sẽ không thành vấn đề. Tuy nhiên, khi nhiệt độ tăng trên một mức nhất định, năng suất lúa sẽ giảm và hạt gạo đặc biệt nhạy cảm với nhiệt độ vào ban đêm.
Nghiên cứu năm 2017 cho thấy nhiệt độ toàn cầu tăng 1 độ C có khả năng làm giảm năng suất lúa trung bình 3,3%. Nhiệt độ đã tăng ít nhất 1,1 độ C kể từ thời tiền công nghiệp.
Một mô hình của nhóm dữ liệu hàng hóa Gro Intelligence dự báo rằng đến năm 2100, các nước xuất khẩu gạo hàng đầu châu Á sẽ có số ngày nhiệt độ trên 35 độ C tăng mạnh, trong đó Thái Lan có khả năng sẽ có thêm 188 ngày trên ngưỡng này trong trường hợp xấu nhất.
Đối với các vùng đồng bằng sản xuất lúa gạo của châu Á, từ sông Mê Kông đến sông Hằng, biến đổi khí hậu có thể gây ra những biến chứng khác. Khi nhiệt độ tăng, mực nước biển dâng cao và nước mặn chảy vào sông nước ngọt, kênh tưới tiêu và đất sẽ làm giảm sản lượng hoặc khiến việc trồng trọt không thể thực hiện được.
Trong khi đó, các nhà sản xuất cũng đang phải đối mặt với hiện tượng El Nino trong năm nay. Hiện tượng thời tiết kết hợp với những tác động của biến đổi khí hậu có thể dẫn đến lượng mưa ít hơn ở các vùng trồng lúa. Ít mưa hơn đồng nghĩa với việc có ít nước ngọt từ sông chảy xuống để cuốn trôi lượng muối dư thừa.
Bộ Nông nghiệp Thái Lan gần đây cũng dự báo rằng vụ mùa của nước này sẽ thấp hơn dự kiến do lượng mưa dưới mức trung bình vào tháng 9 và tháng 10.
Theo các chuyên gia thời tiết, hiện tượng El Nino sẽ kéo dài sang năm tới và điều này sẽ có nguy cơ khiến nguồn cung gạo trên thị trường toàn cầu bị thắt chặt hơn nhiều.
Nhà phân tích Frederic Neumann của HSBC cảnh báo rằng đây không chỉ là vấn đề về giá gạo trong ngắn hạn mà còn là vấn đề về cách thế giới đối phó với các kiểu thời tiết ngày càng thất thường, cộng thêm sự biến động của giá lương thực toàn cầu.
Theo ông Arif Husain của WFP, câu trả lời là nên giao thương nhiều hơn để phân phối thực phẩm tốt hơn trên khắp thế giới. Nhưng ông lo ngại rằng khi biến đổi khí hậu trở nên tồi tệ hơn, các chính phủ có thể ngày càng đóng cửa biên giới và tránh xa thị trường toàn cầu.
“Cú sốc hiện tại có thể trở thành một cú sốc lớn trừ khi lý trí thông thường chiếm ưu thế”, ông cho biết.