Theo cáo trạng, hợp tác xã Thuận Thành được thành lập năm 1998, vốn điều lệ là 16,3 tỷ đồng và đến năm 2010 có 5 lần thay đổi đăng ký kinh doanh. Trong năm 2009, ban quản trị hợp tác xã họp và thống nhất “huy động vốn nhàn rỗi trong nhân dân với lãi suất vay vốn của ngân hàng”.
Thực hiện chủ trương trên, Lê Thị Hương lúc này là Chủ nhiệm hợp tác xã đã trực tiếp soạn thảo mẫu sổ tiết kiệm, ký tên, đóng dấu hợp tác xã để phát hành sổ tiết kiệm. Mặc dù hợp tác xã có chủ trương huy động vốn với lãi suất vay vốn của ngân hàng song do cần nguồn vốn để kinh doanh nên Hương đã huy động vốn với lãi suất cao hơn lãi suất ngân hàng
Từ năm 2008-2013, bị cáo Hương cùng cấp dưới gồm phó chủ nhiệm, kế toán trưởng, thủ quỹ đã phát hành 192 sổ tiết kiệm, huy động số tiền hơn 16 tỷ đồng.
Quá trình thực hiện, bị cáo lấy số vốn ngắn hạn để đầu tư dài hạn dẫn đến thua lỗ nên mất khả năng thanh toán.
Bản án sơ thẩm tuyên buộc bị cáo Hương mức án 9 tháng tù về tội Kinh doanh trái phép. 4 bị cáo còn lại lĩnh án từ 3-5 tháng tù nhưng cho hưởng án treo với tội danh trên. Tòa cũng buộc hợp tác xã phải bồi thường toàn bộ số tiền gốc cho các bị hại. Sau đó, bị cáo Hương kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
Khi xem xét, đại diện VKSND cho rằng, cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo tội Kinh doanh trái phép là có căn cứ song bị cáo có nhân thân tốt, có nhiều thành tích, được tặng nhiều huy chương. Bản án sơ thẩm xác định bị cáo phạm tội nhiều lần là không đúng vì bị cáo đã bị xét xử theo tình tiết định khung tăng nặng tại điểm c, khoản 2, Điều 159 BLHS 1999. Mặt khác, Bộ Luật hình sự 2015 không còn quy định tội danh Kinh doanh trái phép. Do đó, VKSND đề nghị cho bị cáo được hưởng án treo.
HĐXX cấp phúc thẩm nhận thấy, mặc dù Bộ Luật hình sự 2015 không quy định tội Kinh doanh trái phép nhưng hành vi của các bị cáo phạm vào tội Vi phạm quy định về hoạt động ngân hàng, hoạt động khác liên quan đến hoạt động ngân hàng. Do đó, hành vi phát hành sổ tiết kiệm huy động vốn khi chưa được phép vẫn có thể bị xem xét trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ Luật hình sự 2015.
Tại cấp phúc thẩm, bị cáo không có tình tiết giảm nhẹ mới nên không có căn cứ để giảm án và hưởng án treo.