Sáng 27/3, Bộ Kế hoạch và Đầu tư phối hợp với Đại sứ quán Nhật Bản tại Việt Nam, Ủy ban Kinh tế Việt Nam - Nhật Bản thuộc Liên đoàn các tổ chức kinh tế Nhật Bản (Keidanren) tổ chức cuộc họp khởi động Sáng kiến chung Việt Nam - Nhật Bản trong kỷ nguyên mới - giai đoạn 1.
Sáng kiến được triển khai trên cơ sở Tuyên bố chung về nâng cấp quan hệ Việt Nam - Nhật Bản lên “Đối tác Chiến lược toàn diện vì hòa bình và thịnh vượng tại châu Á và trên thế giới” và kết quả triển khai thực hiện 8 giai đoạn của Sáng kiến chung Việt Nam - Nhật Bản trong suốt 20 năm qua.
Cuộc họp khởi động Sáng kiến chung Việt Nam - Nhật Bản trong kỷ nguyên mới - giai đoạn 1. (Ảnh: Đức Trung) |
Phát biểu tại cuộc họp, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng cho biết, Sáng kiến chung Việt Nam - Nhật Bản là khuôn khổ đối thoại chính sách thiết thực và hiệu quả giữa cộng đồng doanh nghiệp Nhật Bản với các Bộ ngành phía Việt Nam, góp phần tạo dựng môi trường đầu tư và kinh doanh thông thoáng, minh bạch tại Việt Nam đồng thời đưa ra những khuyến nghị chính sách mang tính xây dựng, làm thông tin tham khảo trong quá trình hoàn thiện luật pháp, chính sách cho các cơ quan chức năng của Việt Nam.
Được khởi xướng từ năm 2003, Sáng kiến chung Việt Nam - Nhật Bản đã trải qua hơn 20 năm và hoàn thành 8 giai đoạn, với tổng số 497/594 hạng mục đã hoàn thành tốt và đúng tiến độ, chiếm 84% tổng số hạng mục trong Kế hoạch hành động hai bên thực hiện, có đóng góp quan trọng trong thúc đẩy nguồn vốn đầu tư nước ngoài (FDI) từ Nhật Bản vào Việt Nam nói riêng và từ các quốc gia trên thế giới nói chung.
Tính lũy kế đến ngày 20/2/2024, các nhà đầu tư Nhật Bản đã đầu tư 5.288 dự án với tổng vốn đầu tư đăng ký đạt 74,3 tỷ USD, đóng vai trò to lớn trong công cuộc phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam Riêng 2 tháng đầu năm 2024, tổng vốn đăng ký của Nhật Bản đạt 422,4 triệu USD, tăng 290% so với cùng kỳ. “Đây là một tín hiệu rất khả quan cho thấy các nhà đầu tư Nhật Bản vẫn xem Việt Nam là một điểm đến đầu tư hấp dẫn và an toàn”, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng khẳng định.
Tại cuộc họp, ông Yamada Takio, Đại sứ đặc mệnh toàn quyền Nhật Bản tại Việt Nam đã thông tin về điểm khác biệt của Sáng kiến mới với các Sáng kiến trong 8 giai đoạn trước và nêu các thành tựu cụ thể mang lại lợi ích cho cả hai quốc gia.
Cụ thể lần này, hai bên lựa chọn những nội dung có tính chiến lược, gắn với những vấn đề lớn đang được đặt ra. Đồng thời, yêu cầu phải có kết quả đầu ra cụ thể để ứng dụng vào thực tế.
Theo đó, giai đoạn 1 Sáng kiến chung Việt Nam - Nhật Bản trong kỷ nguyên mới gồm 5 nhóm vấn đề chính: (1) Thúc đẩy Cộng đồng phát thải ròng bằng 0 Châu Á, chuyển đổi xanh (AZEC/ GX); (2) Thúc đẩy Đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số (DX); (3) Tăng cường chuỗi cung ứng, bao gồm phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ; (4) Đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao (lĩnh vực IT, AI, chất bán dẫn); (5) Cải cách cơ chế để hoàn thiện môi trường đầu tư.
Hai bên cũng thống nhất thời gian triển khai giai đoạn 1 Sáng kiến chung Việt Nam - Nhật Bản trong kỷ nguyên mới dự kiến là 19 tháng (từ tháng 3/2024 đến tháng 10/2025). Trong đó, dự kiến có một cuộc họp đánh giá giữa kỳ (vào khoảng tháng 12/2024) và một cuộc họp cấp cao để đánh giá kết quả của việc thực hiện giai đoạn 1 mới vào khoảng tháng 10/2025.
Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng đề nghị, trong giai đoạn đầu tiên của Sáng kiến chung Việt Nam - Nhật Bản trong kỷ nguyên mới, hai bên sẽ cùng phối hợp chặt chẽ để xây dựng và triển khai các nhiệm vụ của Sáng kiến chung gắn với các kết quả đầu ra cụ thể; bám sát và song hành với các nhiệm vụ, chương trình, nội dung có tính chiến lược phù hợp với xu hướng hiện nay để đạt được các mục tiêu mà Việt Nam đề ra tại các chiến lược, kế hoạch như Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021-2030; Chiến lược tăng trưởng xanh; Chiến lược công nghiệp hóa; Chương trình chuyển đổi số quốc gia; Chương trình phát triển công nghiệp hỗ trợ...
Bộ trưởng cũng kỳ vọng trong thời gian tới, các nhà đầu tư Nhật Bản sẽ tiếp tục tăng cường hơn nữa các hợp tác kinh tế và đầu tư vào các lĩnh vực mới mang tính chiến lược giữa hai quốc gia, đồng thời, duy trì và đẩy mạnh hợp tác ODA vì lợi ích của cả hai bên như Tuyên bố chung giữa hai nước đã đề ra, gồm các lĩnh vực: Thúc đẩy hợp tác đảm bảo an ninh kinh tế, Đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, Đổi mới sáng tạo, Chuyển giao công nghệ, Chuyển đổi số, Chuyển đổi xanh, Kết cấu hạ tầng chiến lược, Chống biến đổi khí hậu và Y tế…