Ai được ưu tiên trả tiền?
Vừa qua, RTW Retailwinds, công ty sở hữu gần 400 cửa hàng New York&Co tại 32 bang trên khắp nước Mỹ đã nộp đơn xin phá sản. Đáng chú ý, RTW Retailwind là khách hàng của CTCP May Sông Hồng (MSH) với số nợ chưa thanh toán khoảng 220 tỷ đồng.
New York & Co là một trong những khách hàng truyền thống và là khách hàng lớn đứng thứ 3 trong số các khách hàng FOB của May Sông Hồng. Những năm gần đây, doanh thu của New York & Co chiếm khoảng 17% doanh thu của mảng FOB và chiếm khoảng 13% tổng doanh thu của Công ty.
Trước mắt, trong năm tài chính 2020, May Sông Hồng chắc chắn sẽ phải trích lập dự phòng cho khoản phải thu này và việc này sẽ ảnh hưởng tới lợi nhuận năm 2020 của doanh nghiệp.
Điều mà thị trường đang quan tâm là thủ tục tố tụng tại nước ngoài trong vụ việc phá sản này ra sao và liệu May Sông Hồng có thể thu hồi được phần nào khoản nợ để giảm thiểu tổn thất.
Trao đổi với Đầu tư Chứng khoán, luật sư Trần Duy Cảnh, Công ty Luật TNHH Luật Việt cho biết, ông đã tham khảo các đồng nghiệp tại Mỹ, tham khảo các tài liệu liên quan đến vụ việc được công bố công khai của tòa án và Công ty RTW Retailwinds xung quanh vụ phá sản này.
Theo Luật sư Cảnh, ngày 13/7/2020, RTW Retailwinds, Inc và các công ty con nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản tại Tòa Phá sản Hoa Kỳ, quận New Jersey. Vụ việc được thụ lý bởi thẩm phán John K. Sherwood, dưới mã số 20-18445.
Về cơ bản, yêu cầu căn cứ Chapter 11 của Bộ luật Phá sản Hoa Kỳ về thủ tục tái tổ chức/Reorganization (có một số đặc điểm giống với thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh trong Luật Phá sản 2014 của Việt Nam).
Theo đó, về trình tự tiến hành, RTW Retailwinds và các công ty con vẫn tiếp tục hoạt động kinh doanh dưới sự kiểm soát của tòa án.
Trong vòng 120 ngày kể từ ngày nộp đơn nêu trên, RTW Retailwinds và các công ty con có trách nhiệm xây dựng phương án tái tổ chức nhằm phục hồi hoạt động kinh doanh và dự tính kế hoạch thanh toán nợ.
Phương án này cần được tòa án xác nhận và các chủ nợ đồng ý để có hiệu lực thi hành và giá trị ràng buộc các bên tham gia vụ việc.
Về thứ tự ưu tiên thanh toán, các chi phí hành chính (chi phí thực tế và cần thiết để duy trì tài sản của Công ty như tiền lương cho người lao động làm việc sau khi mở thủ tục phá sản, thuế, chi phí phá sản...) được ưu tiên thanh toán trước.
Tiếp đó là các khoản nợ không có bảo đảm (unsecured claims) phát sinh trong quá trình kinh doanh bình thường của Công ty.
Tiếp theo lần lượt đến khoản nợ lương, khoản nợ đóng góp phúc lợi cho người lao động (tối đa 10.000 USD/người), nợ thuế của cơ quan nhà nước… (Điều 507, Bộ luật Phá sản Hoa Kỳ).
Dù Điều 507 không nhắc đến, nhưng trong thực tế, khoản nợ có bảo đảm được ưu tiên hơn không có bảo đảm và được thanh toán trước bằng tài sản bảo đảm. Nếu tài sản bảo đảm không đủ trả, phần nợ chưa trả còn lại được coi là yêu cầu đòi nợ không có bảo đảm như đã nói ở trên.
Cần lưu ý nguyên tắc thanh toán là khi trả hết các khoản nợ cùng thứ tự ưu tiên thì mới thanh toán đến các khoản thuộc thứ tự ưu tiên tiếp theo.
“Khoản nợ của CTCP May Sông Hồng nhiều khả năng rơi vào trường hợp khoản nợ không có bảo đảm và sẽ được thanh toán sau khi RTW Retailwinds trả hết chi phí hành chính”, luật sư Cảnh nhận định.
Cũng theo ông Cảnh, CTCP May Sông Hồng cần gửi yêu cầu đòi nợ và tài liệu, giấy tờ chứng minh khoản nợ đến Tòa Phá sản quận New Jersey (Điều 501, Bộ luật Phá sản Hoa Kỳ).
Đây là thủ tục cần thiết để được Tòa chấp thuận và cho phép May Sông Hồng tham gia vụ việc qua các hội nghị chủ nợ hay buổi điều trần phương án tái tổ chức, nhằm tăng cường khả năng bảo vệ quyền lợi hợp pháp và chính đáng của mình.
Quan trọng nhất là thuê luật sư ở Mỹ để tư vấn và đại diện cho mình tại tòa án trong vụ việc này. Ở Mỹ, nếu tranh chấp kiện tụng nhau mà không có luật sư thì như mò kim đáy bể, chịu rất nhiều thiệt thòi.
Để hạn chế rủi ro khách hàng phá sản, theo luật sư Cảnh, doanh nghiệp Việt Nam kinh doanh vào Mỹ nên nghiên cứu kỹ lưỡng để có thể đánh giá chính xác nhất khả năng tài chính của đối tác sở tại. Trong trường hợp đối tác phá sản, nên chú ý theo dõi thông tin và tham gia vụ việc sớm nhất có thể nhằm bảo vệ quyền lợi từ đầu.
Được biết, hiện MSH đã làm việc với luật sư bên Hồng Kông và Mỹ để theo vụ việc này, đảm bảo quyền lợi của Công ty.
Tố tụng phá sản ở nước ngoài phức tạp, kéo dài
Sự việc xảy ra với May Sông Hồng thực ra không phải là lần đầu tiên một doanh nghiệp Việt Nam gặp phải.
Cuối năm 2018, thị trường xôn xao vì một khách hàng Mỹ của CTCP Dệt may Đầu tư Thương mại Thành Công (TCM) nộp đơn phá sản tại Tòa án Phá sản Mỹ. Lúc đó, khách hàng này còn khoản nợ khoảng 100 tỷ đồng tại công ty niêm yết nói trên.
Doanh nghiệp tại Việt Nam đã mời luật sư Mỹ để đại diện tham gia tố tụng phá sản. Đến nay, sau gần 2 năm, công ty này chưa thu hồi được một đồng nào và vẫn chưa chốt được khách hàng tại Mỹ phải trả cho công ty là bao nhiêu.
Theo tìm hiểu của người viết, cách đây chừng một tháng, bên Mỹ có gửi một thông báo sẽ thanh toán trước vài trăm nghìn USD cho phía công ty Việt Nam nhưng sau đó lại báo hoãn do còn vấn đề chưa thống nhất được.
Theo nguyên tắc hạch toán tài chính, TCM đã trích lập dự phòng hơn 80% khoản nợ. Nếu thu hồi được thì doanh nghiệp sẽ được hoàn nhập dự phòng và giúp tăng lợi nhuận.
Tuy nhiên, đến nay, doanh nghiệp này vẫn chưa thể xác định có thể thu hồi được bao nhiêu và bao giờ thì được
nhận tiền.
Hài hòa gia tăng doanh số và rủi ro nợ xấu
Để gia tăng doanh số, các doanh nghiệp luôn tìm kiếm cơ hội bán hàng, mở rộng thị trường tiêu thụ. Tuy nhiên, đi kèm với việc đó là nguy cơ khách hàng không trả được tiền, đặc biệt trong trường hợp xuất khẩu, khoảng cách địa lý, khác biệt pháp lý khiến rủi ro gia tăng.
Sự cố khách hàng phá sản ở nước ngoài là bài học cho doanh nghiệp Việt Nam để cân nhắc rủi ro trong hoạt động sản xuất - kinh doanh.
Chia sẻ từ chính doanh nghiệp đã phải đối mặt với tình trạng này cho thấy, sau sự việc khách hàng Mỹ phá sản, công ty cẩn trọng hơn khi bán hàng và lựa chọn hài hòa giữa tăng trưởng và rủi ro.
Theo đó, trong lĩnh vực dệt may, thông lệ khách hàng tại Mỹ thường mua trước trả sau mà không mở L/C. Điều này dẫn đến rủi ro về mặt thu hồi công nợ.
Nhưng không bán hàng vào Mỹ thì bỏ mất một thị trường rộng lớn và tiềm năng. Vấn đề là lựa chọn hài hòa tăng trưởng doanh thu và rủi ro nợ xấu.
Có một số giải pháp có thể thực hiện, chẳng hạn phải liên tục theo dõi khách hàng về tình hình tài chính của họ và cố gắng giảm khoản phải thu xuống. Việc này sẽ ảnh hưởng tới tăng trưởng nhưng phải chấp nhận, bởi nếu dính vào nợ xấu thì có nguy cơ mất hết.
Hoặc giải pháp khác là bán khoản phải thu cho các công ty thu nợ. Nếu quá thời hạn thanh toán, khách hàng chưa trả tiền thì bên công ty thu nợ đứng ra thanh toán cho doanh nghiệp. Việc này có phần tương tự trường hợp một đơn vị đứng ra bảo lãnh, doanh nghiệp sẽ mất phí, giảm lợi nhuận của đơn hàng nhưng an toàn hơn.
Dù vậy, không phải khách hàng nào cũng bán được khoản phải thu. Trong trường hợp tình hình tài chính của khách hàng xấu thì các công ty thu nợ sẽ không mua. Với khách hàng dạng này, cần phải rất thận trọng, thậm chí từ chối bán hàng.