Theo tường thuật của phóng viên TTXVN tại Washington, tại cuộc họp báo ngày 13/4 trong khuôn khổ Hội nghị thường niên mùa Xuân của IMF và Ngân hàng Thế giới (WB), Giám đốc phụ trách châu Á - Thái Bình Dương của IMF, ông Krishna Srinivasan nhận định tăng trưởng toàn cầu đang chuẩn bị giảm tốc trong bối cảnh lãi suất tăng và cuộc chiến của Nga ở Ukraine ảnh hưởng đến hoạt động kinh tế. Lạm phát vẫn ở mức cao và căng thẳng trong hệ thống ngân hàng ở Mỹ và châu Âu đã gây ra sự bất ổn lớn hơn trong bối cảnh kinh tế vốn đã phức tạp.
Tuy nhiên, cho đến nay nhu cầu nội địa của châu Á vẫn mạnh bất chấp việc thắt chặt tiền tệ, trong khi nhu cầu bên ngoài đối với các sản phẩm công nghệ và các mặt hàng xuất khẩu khác đang yếu đi. IMF dự đoán tốc độ tăng trưởng kinh tế của châu Á trong năm nay đạt 4,6%, tăng 0,3 điểm % so với mức dự báo 3,8% đưa ra hồi tháng 10/2022 và sự điều chỉnh tăng này là do tác động của việc Trung Quốc mở cửa trở lại. Theo đó, khu vực này sẽ đóng góp hơn 70% vào tăng trưởng toàn cầu trong năm nay.
Đối với các nền kinh tế phát triển của châu Á, tốc độ tăng trưởng trong năm nay sẽ chậm lại ở mức 1,6%, thấp hơn so với kỳ vọng của IMF đưa ra vào năm ngoái.
Cụ thể, với Nhật Bản, tăng trưởng dự kiến sẽ tăng nhẹ lên 1,3% vào năm 2023, được hỗ trợ bởi các chính sách tài chính và tiền tệ mở rộng. Tăng trưởng của Hàn Quốc cho năm 2023 được điều chỉnh xuống 1,5%, phản ánh đà tăng trưởng chậm lại một phần do chu kỳ công nghệ đi xuống và kết quả kinh doanh yếu trong Quý 4/2022. Tại Ấn Độ, đà tăng trưởng sẽ bắt đầu chậm lại do nhu cầu trong nước yếu đi bù đắp cho nhu cầu dịch vụ bên ngoài mạnh mẽ; tăng trưởng dự kiến sẽ giảm nhẹ từ 6,8% năm 2022 xuống 5,9% năm nay.
Các nền kinh tế thuộc Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) dự kiến sẽ chứng kiến mức tăng trưởng giảm từ 5,7% vào năm 2022 xuống còn 4,6% vào năm 2023, do đà tăng của nhu cầu trong nước giảm nhẹ, chính sách thắt chặt tiền tệ, giá cả hàng hóa thấp hơn và nhu cầu bên ngoài từ Mỹ và châu Âu yếu hơn.
Với Việt Nam, IMF dự báo mức tăng trưởng kinh tế trong năm nay đạt 5,8%, thấp hơn so với mức 8% của năm 2022 và giảm 0,4 điểm % so với mức dự báo 6,2% đưa ra hồi tháng 10/2022.
Tại Australia, nhu cầu trong nước suy yếu liên quan đến việc thắt chặt tiền tệ, tăng các khoản thanh toán thế chấp và thu nhập khả dụng thực tế thấp hơn dự kiến sẽ làm giảm triển vọng tăng trưởng. Trong số các quốc đảo Thái Bình Dương, việc mở lại hoàn toàn biên giới cả trong nước và Trung Quốc sẽ giúp thúc đẩy du lịch, với mức tăng trưởng dự kiến sẽ tăng lên 3,9% trong năm nay.
Trả lời phỏng vấn TTXVN về việc kìm chế lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong thời gian tới, ông Krishna Srinivasan nói: “Khi nói đến lập trường chính sách tiền tệ, Việt Nam đang cố gắng cân bằng giữa hỗ trợ tăng trưởng, chống lạm phát và giải quyết áp lực trong lĩnh vực bất động sản. Chúng tôi thấy lạm phát ở Việt Nam vẫn còn khá cao. Và vì vậy, điều quan trọng là các ngân hàng trung ương phải giải quyết ngay từ đầu vấn đề lạm phát để tránh phải thắt chặt hơn nữa, điều có thể ảnh hưởng đến kỳ vọng. Do đó, xét về khía cạnh cần phải làm gì để giải quyết vấn đề tăng trưởng chậm, tôi nghĩ rằng điều quan trọng đối với Việt Nam là giải quyết lạm phát ngay từ đầu. Các chương trình đầu tư công, trong bối cảnh còn nhiều rủi ro về suy thoái, có thể mở rộng hơn nữa, để sản xuất các sản phẩm hỗ trợ cho nền kinh tế”.
Theo nhận định của IMF, việc Trung Quốc mở cửa trở lại sẽ cung cấp động lực mới. Thông thường tác động mạnh nhất sẽ đến từ nhu cầu hàng hóa đầu tư tại Trung Quốc, nhưng lần này tác động lớn nhất là từ nhu cầu tiêu dùng. Các nền kinh tế mới nổi khác trong khu vực đang trên đà tăng trưởng vững chắc, mặc dù trong một số trường hợp với tốc độ thấp hơn một chút so với năm ngoái.
Tuy nhiên, bất chấp triển vọng tăng trưởng vững chắc của châu Á - Thái Bình Dương trong năm nay, IMF đã cảnh báo các nhà hoạch định chính sách của các nước không thể tự mãn do khu vực vẫn đang phải đối mặt với 4 thách thức chính sách quan trọng.
Thứ nhất, lạm phát vẫn cao hơn mục tiêu và khu vực cần thắt chặt hơn nữa chính sách tiền tệ trong thời gian dài hơn. Thứ hai, liên quan đến rủi ro tài chính, những căng thẳng trong hệ thống ngân hàng toàn cầu cho đến nay có tác động hạn chế đến thị trường châu Á, nhưng các lỗ hổng vẫn còn, liên quan đến đòn bẩy cao và rủi ro trong lĩnh vực bất động sản và các cơ quan giám sát tài chính cần phải duy trì cảnh giác.
Thứ ba, về chính sách tài khóa, có những rủi ro liên quan đến nợ cao và lãi suất tăng. Mức nợ công trong khu vực đã tăng đáng kể so với trước đại dịch. Hầu hết các chính phủ trong khu vực dự kiến sẽ thắt chặt ngân sách tài chính trong năm nay và năm tới. Tuy nhiên, sự hợp nhất dự kiến có thể không đủ để ổn định nợ và lãi suất tăng khiến gánh nặng nợ càng thêm nặng nề.
Cuối cùng là thách thức về tăng trưởng trung hạn. Tăng trưởng năng suất ở châu Á được dự báo sẽ giảm. Tăng trưởng của Trung Quốc, mặc dù phục hồi mạnh mẽ trong năm nay, dự kiến sẽ giảm trong trung hạn. Điều này sẽ có ý nghĩa quan trọng đối với khu vực, đặc biệt là đối với những nền kinh tế có liên kết thương mại quan trọng với Trung Quốc.
Theo khuyến cáo của IMF, các nhà hoạch định chính sách nên cảnh giác, cần theo dõi chặt chẽ những căng thẳng về tài chính và phát triển các kế hoạch dự phòng. Trừ khi các căng thẳng gia tăng và gây ra những lo ngại về ổn định trên diện rộng, các ngân hàng trung ương nên tách các mục tiêu chính sách tiền tệ khỏi các mục tiêu ổn định tài chính. Để làm như vậy, họ nên sử dụng các công cụ sẵn có - chẳng hạn như các công cụ cho vay và chiết khấu - để giảm bớt bất kỳ hạn chế thanh khoản nào trong lĩnh vực ngân hàng, cho phép duy trì chính sách lãi suất chặt chẽ hơn trong thời gian dài hơn cho đến khi lạm phát giảm trở lại mức mục tiêu một cách lâu dài. Ngoài ra, việc củng cố tài khóa có thể cần phải quyết liệt hơn để đảm bảo tính bền vững trong trung hạn. Các nhà hoạch định chính sách phải đạt được sự cân bằng giữa hỗ trợ tăng trưởng, bảo vệ những người dễ bị tổn thương và giải quyết các mối lo ngại về nợ.
Bên cạnh đó, các nền kinh tế châu Á cũng phải ưu tiên các sáng kiến chính sách thúc đẩy tăng trưởng dài hạn. Cải cách cơ cấu là cần thiết để thúc đẩy đổi mới và số hóa, đẩy nhanh quá trình chuyển đổi năng lượng xanh, giảm thiểu rủi ro từ sự phân mảnh và đảm bảo an ninh lương thực.