Đánh giá của bà về hiệu quả của việc chuyển từ cơ chế tiền kiểm sang hậu kiểm theo định hướng của Luật Doanh nghiệp 2014?
Chủ trương đẩy mạnh công tác “hậu kiểm” đã được thực hiện ngay từ những năm 2000 khi Luật Doanh nghiệp 1999 đi vào thực tế. Khi đó, việc đổi mới quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp bắt nguồn từ thay đổi cơ bản trong nhận thức về mối quan hệ giữa Nhà nước và doanh nghiệp, đó là: thay đổi cơ bản phương thức quản lý từ “tiền kiểm” sang “hậu kiểm”; chuyển từ quan hệ giám sát, quản lý sang quan hệ đối tác, hỗ trợ phát triển là chủ yếu; chuyển từ can thiệp hành chính, trực tiếp vào các doanh nghiệp sang can thiệp gián tiếp thông qua hệ thống pháp luật, kế hoạch, cơ chế chính sách và các công cụ điều tiết vĩ mô.
Tiếp tục thực hiện chủ trương trên, Luật Doanh nghiệp 2014 và các văn bản hướng dẫn thi hành đã đề cao quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp, đặt ra yêu cầu cao hơn về trách nhiệm thực hiện công tác “hậu kiểm” của các cơ quan quản lý nhà nước.
Để triển khai việc hậu kiểm, liên bộ: Kế hoạch và Đầu tư, Nội vụ, Tài chính đã ban hành Thông tư liên tịch số 04/2015/TTLT-BKHĐT-BTC-BNV ngày 28/5/2015 về ban hành Quy chế phối hợp mẫu giữa các cơ quan chức năng trên địa bàn tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trong quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp sau đăng ký thành lập.
Với những nỗ lực trên, công tác “hậu kiểm” đang dần được chuẩn hóa với quy trình cụ thể, minh bạch để vừa đảm bảo các yêu cầu quản lý của Nhà nước, vừa tạo điều kiện cho doanh nghiệp hoạt động, phát triển trong khuôn khổ của pháp luật, góp phần tăng cường việc tuân thủ pháp luật và ngăn chặn, giảm thiểu tình trạng vi phạm pháp luật của doanh nghiệp.
Đây cũng là những mục tiêu quan trọng mà công tác “hậu kiểm” đang hướng tới để thực sự đóng góp cho sự phát triển của môi trường kinh doanh.
Có ý kiến cho rằng, việc đăng ký kinh doanh quá dễ dàng, trong khi cơ chế đảm bảo hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp sau đăng ký còn hạn chế đã kéo theo hiện tượng nhiều cá nhân lợi dụng kẽ hở của pháp luật để trục lợi. Quan điểm của bà về vấn đề này thế nào?
Nhận định như trên là chưa thực sự hiểu rạch ròi về bản chất công tác đăng ký kinh doanh và công tác quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp.
Thứ nhất, việc đăng ký doanh nghiệp hoàn toàn khác với việc cấp phép, tức là cơ quan đăng ký kinh doanh không có quyền “cho”. Trên cơ sở tôn trọng quyền tự do kinh doanh đã được Hiến pháp quy định, cơ quan đăng ký kinh doanh chỉ ghi nhận ý chí, nguyện vọng tham gia vào thị trường của doanh nghiệp. Nếu hồ sơ đăng ký doanh nghiệp là hợp lệ, cơ quan đăng ký kinh doanh phải cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, gần giống như mọi đứa trẻ đều có quyền được khai sinh.
Thứ hai, doanh nghiệp là chủ thể gây hành vi vi phạm thì phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi của mình. Có thể so sánh như thế này, không thể vì con phạm tội mà buộc tội bố, mẹ đã sinh ra người con đó. Nguyên tắc này đã trở thành nguyên tắc cốt lõi trong đăng ký doanh nghiệp được cụ thể hóa từ Nghị định 43/2010/NĐ-CP ngày 15/04/2010 về đăng ký doanh nghiệp và tiếp tục được quy định tại Nghị định 78/2015/NĐ-CP.
Bên cạnh đó, việc đơn giản hóa thủ tục đăng ký doanh nghiệp là nhằm tạo điều kiện cho số đông các doanh nghiệp có nhu cầu làm ăn, kinh doanh chân chính, muốn tạo công ăn việc làm và thu nhập chính đáng cho người lao động. Việc các doanh nghiệp lợi dụng cơ chế, sự thuận lợi để vi phạm pháp luật chỉ là số nhỏ và sẽ luôn đặt ra những yêu cầu, thách thức để cơ quan quản lý phải hoàn thiện hơn công tác “hậu kiểm”, nâng cao chất lượng, hiệu quả của nhiệm vụ này.
Những khó khăn trong triển khai công tác “hậu kiểm” hiện nay là gì, thưa bà?
Công tác “hậu kiểm” có nhiều thách thức lớn.
Thứ nhất, sự phối hợp triển khai và tính sẵn sàng của các cơ quan quản lý trong thực hiện nhiệm vụ “hậu kiểm”. Nhiều cơ quan quản lý nhà nước chưa nhận thức được trách nhiệm của mình trong quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp, chưa chủ động xây dựng kế hoạch, phương án thực hiện nhiệm vụ này và chưa có sự phối hợp hiệu quả cùng nhau để triển khai.
Thứ hai, ý thức tuân thủ và chấp hành quy định pháp luật của một bộ phận doanh nghiệp tham gia vào thị trường còn kém.
Thứ ba, sự tăng trưởng nhanh về số lượng doanh nghiệp qua các năm. Cùng với việc gia tăng về số lượng, các hành vi vi phạm pháp luật của doanh nghiệp cũng tăng mạnh, cả về số lượng và mức độ vi phạm, khiến cơ quan quản lý nhà nước rất vất vả.
Theo bà, giải pháp nào để đảm bảo công tác hậu kiểm thời gian tới có hiệu quả?
Để làm tốt nhiệm vụ này, các cơ quan quản lý nhà nước cần nhận thức rõ trách nhiệm trong công tác hậu kiểm của mình, phối hợp tốt với các cơ quan khác như: cơ quan đăng ký kinh doanh, thuế, công an…
Theo đó, các bộ, cơ quan quản lý chuyên ngành chức năng có nhiệm vụ hướng dẫn doanh nghiệp thực hiện quy định pháp luật trong lĩnh vực đó; xây dựng quy phạm pháp luật trong lĩnh vực quản lý nhà nước của mình để doanh nghiệp thuận lợi trong hoạt động sản xuất, kinh doanh; kiểm tra, thanh tra và xử lý vi phạm pháp luật của doanh nghiệp thuộc lĩnh vực mình quản lý.
Tại địa phương, cần phối hợp chặt chẽ với cơ quan quản lý nhà nước ở trung ương trong việc xây dựng, ban hành cơ chế chính sách, pháp luật về hoạt động kinh doanh, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý nhà nước về doanh nghiệp. Báo cáo Chính phủ, Bộ, cơ quan ngang bộ những vấn đề phát sinh trong thực tế triển khai công tác quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp ở địa phương để kịp thời ban hành chính sách, biện pháp khắc phục.
Một biện pháp hết sức quan trọng là huy động sự tham gia của xã hội và của các chủ thể khác trong quản lý, giám sát doanh nghiệp sau đăng ký thành lập. Vai trò giám sát của bên thứ ba bao gồm: các chủ nợ và bạn hàng, hiệp hội người tiêu dùng, đối thủ cạnh tranh, hội nghề nghiệp và công luận...