Xung quanh chủ đề này, ĐTCK đã có cuộc trao đổi với ông Nguyễn Đức Phương, Giám đốc Tư vấn tài chính CTCK Bản Việt.
Thưa ông, tại sao trào lưu đối tác Nhật Bản mua cổ phần của các công ty Việt
Xét về lý do nội tại, hiện nay, lãi suất tiền gửi tại Nhật Bản ở mức rất thấp, chỉ 1 - 2%/năm, vì vậy, dòng tiền nhàn rỗi có động lực hợp lý để tìm kiếm các cơ hội đầu tư bên ngoài. Trong khu vực lân cận Nhật Bản, Việt Nam trở thành một địa chỉ ưa thích, vì bên cạnh khoảng cách địa lý gần gũi, văn hóa mang nét Á Đông tương đồng, thì ở Việt Nam, các NĐT Nhật được đối xử thân thiện, đặc biệt là sự đi xuống của thị trường thấp hơn mặt bằng chung của khu vực.
Sự hấp dẫn này đã manh nha bấy lâu nay, nhưng sang năm 2012 mới hình thành trào lưu, khi tỷ giá được dự báo sẽ ổn định. Các khoản đầu tư tại Việt Nam cho tỷ suất lợi nhuận trên 10%, trừ đi biến động tỷ giá dự phóng năm 2012 biến động không quá 3%, hứa hẹn tỷ suất sinh lời thực tế với các NĐT Nhật Bản từ 7 - 8%. Đây là con số thực sự hấp dẫn với họ, hình thành nên một làn sóng NĐT Nhật Bản mua cổ phần tại Việt
Xin ông cho biết, lĩnh vực nào đang được nhà đầu tư Nhật Bản quan tâm?
Làm việc với nhiều đối tác, chúng tôi nhận thấy họ thực sự hứng thú với lĩnh vực hàng tiêu dùng, chăm sóc sức khỏe, y tế và bán lẻ. Mới đây, Bản Việt đã tư vấn cho Quỹ đầu tư Công nghiệp DI châu Á (DIAIF) mua 10 triệu cổ phần của CTCP Thiết bị y tế Việt Nhật (JVC). Thị trường cũng chứng khiến nhiều thương vụ tương tự khi NĐT Nhật Bản mua cổ phần lô lớn diễn ra trong ngành thực phẩm. Mảng tài chính cũng nhận được sự quan tâm sau cuộc hợp tác đình đám Vietcombank - Mizuho. Giữa quý II/2012, chúng tôi sẽ có cuộc roadshow tại Nhật Bản, tìm cơ hội hợp tác và đối tác chiến lược cho một số ngân hàng Việt
Trên vai trò là nhà tư vấn, ông có thể chia sẻ gì với các công ty trong nước về trào lưu hợp tác hiện nay?
Thực tế, khi có ý định “se duyên” với đối tác đến từ Đông Á, cần phải hiểu họ có nhiều điểm khá khác biệt với các NĐT đến từ các quốc gia khác. Chẳng hạn, khi đầu tư vào một doanh nghiệp nội địa, đối tác Nhật Bản có khả năng giới thiệu thêm nhà cung cấp máy móc thiết bị, nguyên liệu hay khách hàng cho doanh nghiệp. Đơn cử, trước khi DIAIF bày tỏ ý định muốn song hành với JVC thì đã có 5 - 6 NĐT khác muốn hợp tác. Tuy nhiên, cuối cùng JVC chọn DIAIF, vì đối tác và cả Bản Việt - đơn vị tư vấn và doanh nghiệp, đều chung một góc nhìn: DIAIF có khả năng hỗ trợ JVC trong quản lý, phát triển chiến lược kinh doanh, cũng như mở rộng quan hệ với các đối tác ở Việt Nam và Nhật Bản khác…, với định hướng giúp đối tác trở thành nhà cung cấp giải pháp y tế hàng đầu ở Việt Nam. Cả hai không đặt nặng lợi nhuận ngắn hạn, mà chỉ chú trọng tới khả năng phát triển dài hạn khi hợp tác.
Một điều khác tôi muốn chia sẻ là người Nhật đặt ra các chuẩn mực minh bạch của đối tác tương lai tương đối cao. Chẳng hạn, thương vụ JVC - DIAIF khởi đầu từ tháng 9 năm ngoái và hoàn tất vào tháng 3 năm nay. Trong thời gian đó, chuyên viên của DIAIF làm việc liên tục, luôn có mặt tại JVC để “hiểu” đối tác. Có thể nói, trong việc xem xét, mổ xẻ từng con số trên báo cáo tài chính của đối tác Việt
Với sự quan tâm của NĐT Nhật Bản dành cho các công ty Việt Nam, ông có lời khuyên nào cho các đối tác nội địa đang muốn tìm sự hợp tác?
Theo quan sát của chúng tôi, phần lớn cuộc mua bán cổ phần của đối tác Nhật Bản với công ty Việt
Còn phía đối tác nội địa, họ gặp nhiều khó khăn không kém phía đối tác Nhật Bản, do thiếu thông tin để đánh giá đối tác nước ngoài: Triết lý mô hình kinh doanh của đối tác ra sao? Mục tiêu mua cổ phần để làm gì? Họ có tham gia điều hành doanh nghiệp không và nếu có, liệu có khiến công ty nội địa đi chệch chiến lược đã hoạch định từ trước?
Không chỉ vậy, khẩu vị của các nhóm NĐT cũng rất khác nhau. Có NĐT ưa thích công ty tăng trưởng nhanh, có NĐT ưa thích công ty có nền tảng vững vàng.
Tất cả những điều đó tạo nên khó khăn cho hai phía khi tiếp xúc và chỉ có đơn vị tư vấn có kinh nghiệm mới có thể giải quyết, giúp đối tác nội địa thể hiện được hình ảnh của mình tốt nhất. Điều này không chỉ thiết lập thành công mối quan hệ lâu dài, mà còn mang về thặng dư cho các cổ đông.