Không những thế, hàng thủ công mỹ nghệ đang mất dần thị phần ở các thị trường quan trọng. Một nghiên cứu cho thấy, liên tục trong những năm gần đây, trung bình mỗi năm, kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ giảm khoảng 10 triệu USD ở thị trường châu Âu. Còn tại thị trường châu Á, mức giảm cũng tương tự.
Những bất cập trong sản xuất, tiêu thụ hàng thủ công mỹ nghệ đã được phân tích cụ thể tại Hội nghị Toàn quốc về xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ do Bộ Thương mại tổ chức mới đây.
Theo đánh giá chung, hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam còn nhiều điểm yếu, như khả năng thiết kế mẫu mã còn kém; thiếu đa dạng về hình thức, chủng loại sản phẩm; công tác xúc tiến quảng bá còn nhiều hạn chế; quy mô sản xuất nhỏ lẻ, manh mún; thiếu sự liên kết hợp tác. Bên cạnh đó, một vấn đề hết sức khó khăn đối với các cơ sở sản xuất mặt hàng thủ công mỹ nghệ là ngành này phụ thuộc nhiều vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu.
Nếu như những năm trước đây, hàng thủ công mỹ nghệ được sản xuất chủ yếu bằng nguyên liệu sẵn có trong nước (tỷ trọng vật tư nhập khẩu ở mức dưới 10%) thì tại thời điểm này, nguyên liệu nhập khẩu đã chiếm tới 50%. Trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ năm 2006, chỉ 4 nhóm hàng chính (gỗ; mây, tre, cói, lá; gốm; dệt, thêu) đã chiếm tới 90% kim ngạch xuất khẩu. Yêu cầu về nguyên liệu đối với các ngành hàng này rất lớn, nhưng khả năng đáp ứng trong nước lại rất hạn chế, do tốc độ phát triển quá nhanh của các làng nghề, việc thiếu đầu tư quy hoạch, tình trạng khai thác bừa bãi đã dẫn đến cạn kiệt nguồn nguyên liệu.
Để đáp ứng nhu cầu sản xuất, những năm gần đây, Việt
Đại diện Hiệp hội Làng nghề Việt
Giám đốc một công ty xuất khẩu thủ công mỹ nghệ cho biết, đội ngũ thợ sản xuất thủ công mỹ nghệ chỉ nắm được các kỹ năng cơ bản theo kiểu “công thức” dập khuôn, chứ không được đào tạo một cách chuyên sâu, bài bản về thiết kế mẫu mã. “Không thể phủ nhận rằng, nhiều sản phẩm thủ công mang tính truyền thống cao, chứa đựng những yếu tố văn hóa dân tộc, thể hiện sự tài hoa của người thợ. Song xét về phương diện thương mại, không thể ‘bê’ nguyên xi những sản phẩm này ra thị trường quốc tế, mà đòi hỏi có sự thích nghi nhất định”, vị giám đốc này nói. Điều này có nghĩa là, cần có sự sáng tạo dựa trên cơ sở nghiên cứu, nắm bắt thị hiếu, xu thế của thị trường, nhu cầu của khách hàng. Sự thiếu hụt lớn về thiết kế mẫu mã sản phẩm khiến sức vươn ra thị trường quốc tế của hàng thủ công mỹ nghệ Việt
Bộ Thương mại đánh giá, hàng thủ công mỹ nghệ có nhiều tiềm năng phát triển, không chỉ phát huy ưu thế của làng nghề truyền thống, mà còn giải quyết một lực lượng lao động rất lớn. Theo tính toán, cứ xuất khẩu 1 triệu USD hàng thủ công mỹ nghệ thì sẽ thu hút khoảng 4.000 lao động/năm.
Tại Hội nghị, ông Đỗ Như Đính, Thứ trưởng Bộ Thương mại cho biết, mục tiêu đến năm 2010, kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ đạt 1,5 tỷ USD, riêng trong năm 2007, kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng này dự kiến đạt khoảng 820 triệu USD. Tuy nhiên, theo nhận định của nhiều chuyên gia, với tốc độ tăng trưởng như hiện nay thì việc thực hiện mục tiêu trên là rất khó khăn.