Thực trạng trên vừa được chia sẻ tại Hội thảo tăng cường tiếp cận thị trường vốn Việt Nam do Ủy ban Chứng khoán nhà nước phối hợp với Viện nghiên cứu và quản lý kinh tế trung ương (Ciem), Diễn đàn kinh tế tư nhân VBF tổ chức ngày 8/5.
Thiếu hàng hóa cho nhà đầu tư nước ngoài
“Hiện nay doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài rất khó bỏ vốn vào doanh nghiệp Việt vì không có cổ phiếu để đầu tư, thiếu hàng hóa và sự mất cân đối về cơ cấu vốn thị trường” ông Lê Anh Tuấn, Phó tổng giám đốc đầu tư, Công ty Quản lý quỹ Dragon Capital nêu thực trạng.
Theo tính toán của đại diện Quỹ này, tính đến cuối tháng 3 năm 2019, ước tính mức tổng vốn hóa vào 2 Sở HOSE và HNX đạt khoảng 145 tỷ USD, trong đó nhà đầu tư nước ngoài sở hữu mới chỉ đạt 35 tỷ USD. Như vậy, nếu nhà đầu tư nước ngoài được mua hết cả thị trường (ước khoảng 53 tỷ USD), thì số room còn lại là 18 tỷ USD.
Tuy nhiên, trên thực tế trong số 18 tỷ USD còn lại này, có gần 50% thuộc nhóm cổ phiếu lớn (trong đó nặng ký nhất là Vingroup chiếm tới 7,2 tỷ USD; Vinamilk, Novaland và PV Power chiếm khoảng 2 tỷ USD); còn lại 751 cổ phiếu khác chiếm 50%, chỉ khoảng 8,5 tỷ USD, tính trung bình xấp xỉ 11 triệu USD/công ty.
“Với số lượng hàng hóa còn ít ỏi này thì nhà đầu tư nước ngoài có muốn đầu tư vào Việt Nam thì cũng không có hàng hóa để thu hút đầu tư. Bên cạnh đó, có một nghịch lý dẫn tới sự mất cân đối là những công ty đầu ngành trong Top 20 được phép mua thì lại hết room, các công còn lại thì lại có định giá thấp trên thị trường tạo ra sự mất cân đối về vốn”, ông Tuấn phân tích.
Để giải quyết vấn đề này, ông Tuấn cho rằng, cần đưa ra giải pháp tổng thể cho thị trường, trong đó tập trung giải quyết các yếu tố chi phối bao gồm mức độ sâu, rộng của thị trường, sự minh bạch thông tin và khung pháp lý hoàn thiện đảm bảo tính đồng bộ.
“Việc cung cấp giải pháp để nhà đầu tư vào thị trường các nước như Thái Lan, Nhật Bản, Malaysia đã thực hiện và đạt hiệu quả”, ông Tuấn nêu dẫn chứng.
Doanh nghiệp không mặn mà nâng trần sở hữu ngoại
Trong khi đó, con số thống kê về tỷ lệ sở hữu nước ngoài được bà Nguyễn Thị Việt Hà, Uỷ viên chuyên trách HĐQT, Sở Giao dịch chứng khoán TP. HCM (HOSE) đưa ra rất đáng lưu tâm.
Với số lượng hàng hóa còn ít ỏi này thì nhà đầu tư nước ngoài có muốn đầu tư vào Việt Nam thì cũng không có hàng hóa để thu hút đầu tư.
Sau Nghị định 60 có hiệu lực thực hiện từ ngày 1/9/2015, với quy định nhà đầu tư nước ngoài được quyền nới room và mua chứng khoán không hạn chế, nâng trần sở hữu ngoại (FOL), trong 376 Công ty niêm yết trên HOSE, đến nay mới chỉ có 25 Công ty có FOL đạt 100%; còn tới 317 công ty có FOL đạt 49%. Thậm chí, có 23 doanh nghiệp áp dụng quy định hiện hành cho phép để hạn chế bớt tỷ lệ sở hữu nước ngoài xuống dưới mức 49%.
“Việc chưa nâng FOL lên 100% do khó khăn trong việc xác định ngành nghề kinh doanh có điều kiện và khó khăn trong việc xác định vị trí pháp lý là công ty trong nước hay nước ngoài do nhà đầu tư nước ngoài mua/bán cổ phiếu hàng ngày. Các công ty niêm yết muốn nới room phải rà soát danh sách ngành nghề có điều kiện trong và ngoài nước, gặp nhiều khó khăn trong tìm hiểu thông tin, chưa kể những vướng mắc về thủ tục tuân thủ Luật Đầu tư”, bà Hà cho biết.
Bên cạnh đó, lý do khác nữa được bà Hà nêu ra là khi công ty nới room lên trên 51% sẽ được xem là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, trong một số ngành nghề nhất định bị hạn chế, như y tế bị hạn chế trong phân phối hàng hóa sản phẩm vào khu vực công hay lĩnh vực công nghệ thông tin gặp bất lợi nhất định khi tham gia đấu thầu dự án có vốn NSNN.
Ngoài ra, một số công ty muốn duy trì quyền kiểm soát của cổ đông trong nước nên họ không muốn nới room và vận dụng quy định hiện hành cho phép họ làm điều đó.
Mặc dù vậy, đại diện HOSE cho rằng, sự quan tâm của nhà đầu tư nước ngoài vào TTCK Việt Nam vẫn rất lớn, giao dịch trên HOSE khá sôi động. Hiện nhà đầu tư nước ngoài đang nắm giữ 24,6% giá trị giao dịch tại VN-Index, tương đương khoảng 31 tỷ USD và 27,35% trong rổ VN30.
Nếu chia ra theo ngành thì top 3 ngành có khối lượng nắm giữ của nhà đầu tư nước ngoài lớn nhất là ngành tiêu dùng thiết yếu với tỷ lệ sở hữu trên 50%, Công nghệ thông tin với trên 48% và y tế trên 40%.
Cần tạo công cụ huy động vốn cho doanh nghiệp
Theo ông Phan Đức Hiếu, Viện phó Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) cho rằng, bản chất doanh nghiệp là công cụ để nhà đầu tư bỏ tiền kinh doanh. Mục tiêu của nhà làm luật là giúp cho mục tiêu công cụ này được sử dụng rộng rãi, hiệu quả và an toàn hơn. Trách nhiệm cơ quan nhà nước là trao cơ hội đầu tư kinh doanh và an toàn xã hội.
Vì vậy, cơ quan quản lý cần trao cho doanh nghiệp các công cụ huy động vốn để đi đầu tư kinh doanh, đây cũng là quan điểm và mục tiêu đề xuất được ông Hiếu thẳng thắn nêu ra tại Hội thảo.
Ông Phan Đức Hiếu, Viện phó Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM)
Để thu hút vốn ngoại vào thị trường, bà Hà cho biết, HOSE đang triển khai các sản phẩm như ETF không giới hạn FOL với nhà dầu tư nước ngoài. Khi dùng sản phẩm này, nhà đầu tư nước ngoài chỉ được chuyển đổi từ ETF sang cổ phiếu với cổ phiếu còn room và nhận tiền với cổ phiếu hết room.
Ngoài ra, HOSE đang nghiên cứu các sản phẩm khác như Cổ phiếu không có quyền niêm yết và sản phẩm chứng chỉ lưu ký không có quyền biểu quyết NVDR (Non-voting Depository Receipt).
Với vai trò cơ quan quản lý nhà nước, ông Phạm Hồng Sơn, Phó chủ tịch Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước cho biết, để tạo điều kiện thuận lợi và khuyến khích nhà đầu tư nước ngoài, UBCKNN đã nỗ lực xây dựng chính sách thu hút nhà đầu tư cũng như dòng vốn gián tiếp nước ngoài, đồng thời có nhiều giải pháp để nhà đầu tư dễ dàng tiếp cận thị trường.
Cùng với việc ban hành Nghị định 60 liên quan đến tỷ lệ sở hữu nước ngoài, thủ tục hành chính trong tiếp cận thị trường cho nhà đầu tư nước ngoài cũng đã được tiết giảm, tạo thuận lợi cho nhà đầu tư nước ngoài tiếp cận thị trường.
Tiêu biểu như quy định tất cả cá nhân, tổ chức là nhà đầu tư nước ngoài đều được mở tài khoản trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Năm 2016, Trung tâm lưu ký chứng khoán mở dịch vụ trực tuyến, thời gian làm việc 1 ngày cấp tài khoản cho nhà đầu tư kể từ khi nhận đầy đủ hồ sơ.
Ngoài ra, cơ quan chức năng cũng đã cung cấp trang thông tin bằng tiếng Anh để thuận lợi cho nhà đầu tư nước ngoài, đồng thời ban hành Thông tư khuyến khích công bố thông tin bằng tiếng Anh bước đầu để giảm chênh lệch với các thị trường khu vực.
“Tuy nhiên, trong quá trình khiển khai, chúng tôi nhận thấy một số vướng mắc khiến thu hút nhà đầu tư nước ngoài chưa được như mong muốn. Vì vậy, chúng tôi đang xây dựng Dự thảo Luật chứng khoán sửa đổi và văn bản hướng dẫn thi hành luật. Chúng tôi đang tiếp tục nghiên cứu để hoàn thiện chính sách, trong đó có chính sách để thu hút nhà đầu tư nước ngoài vào thị trường chứng khoán Việt Nam”, ông Phạm Hồng Sơn cho biết.
Cũng theo ông Sơn, UBCKNN đã và đang nghiên cứu đưa ra nhiều giải pháp nhằm tăng tính hấp dẫn cho TTCK thông qua việc tăng quy mô và thanh khoản cho TTCK như việc triển khai các sản phẩm mới.
Hiện nay đã có TTCK phái sinh, sắp tới lộ trình tiếp theo là có sản phẩm mới để tăng tính hấp dẫn của thị trường, trong đó có sản phẩm giao dịch có bảo đảm Covered Warrant, Hợp đồng tương lai Trái phiếu Chính phủ có kỳ hạn 5 năm dự kiến sẽ được triển khai lần lượt vào tháng 6, 7 tới đây nhằm tích cực thu hút nguồn vốn đầu tư gián tiếp.
“Hiện UBCKNN đang dự thảo Luật Chứng khoán sửa đổi và các văn bản hướng dẫn thi hành luật, chúng tôi vẫn đang tiếp tục nghiên cứu để hoàn thiện chính sách, đặc biệt là chính sách tham gia của nhà đầu tư nước ngoài trên TTCK Việt Nam.
Chúng tôi mong muốn có thêm nhiều ý kiến, giải pháp để làm sao tăng cường tiếp cận thị trường vốn của NĐTNN vào Việt Nam, thu hút thêm dòng vốn gián tiếp của nước ngoài, từng bước giúp thị trường chứng khoán Việt Nam phát triển hơn, hướng tới các tiêu chuẩn cao hơn”, ông Sơn khẳng định.