“Không phải cứ giảm lãi suất là tốt”
Trong ba tuần qua, Eximbank đã có 6 lần giảm lãi suất huy động. Cụ thể, từ ngày 25/2 - 14/3/2025, Chương trình “Gửi dài an tâm” gửi tại quầy giảm 0,6 - 0,8%/năm lãi suất các kỳ hạn từ 15 - 36 tháng; tiền gửi tiết kiệm giảm 0,1 - 0,2%/năm các kỳ hạn 12 - 24 tháng đối với khách hàng thường và giảm 0,2%/năm các kỳ hạn 6 - 12 tháng đối với khách hàng trên 50 tuổi; tiền gửi online có kỳ hạn giảm 0,1%/năm với các kỳ hạn dưới 6 tháng và giảm 0,2 - 0,8%/năm đối với các kỳ hạn từ 6 - 36 tháng.
Từ ngày 26/2 - 14/3/2025, KienlongBank đã giảm lãi suất 3 lần. Cụ thể, đối với tiền gửi online, giảm 0,4 - 1%/năm các kỳ hạn 1 - 60 tháng; đối với tiền gửi tại quầy giảm 0,2 - 0,3%/năm các kỳ hạn từ 13 - 60 tháng. Riêng ngày 14/3/2025, KienlongBank giảm 0,1%/năm lãi suất với các kỳ hạn từ 6 - 60 tháng; giảm 0,2%/năm kỳ hạn 1 - 5 tháng. Hay ngày 15/3/2025, ABBank giảm 0,1%/năm lãi suất các kỳ hạn từ 2 - 60 tháng.
Phó Thống đốc thường trực Ngân hàng Nhà nước Đào Minh Tú cho biết, lãi suất điều hành sẽ tiếp tục ổn định và theo chiều hướng giảm. Lãi suất cho vay giảm là yêu cầu đặt ra với các ngân hàng thương mại và Ngân hàng Nhà nước sẽ chỉ đạo rất kiên quyết. Trong kế hoạch kinh doanh tài chính sắp tới của 4 ngân hàng thương mại có vốn nhà nước, sẽ cắt giảm chi tiêu hành chính để tạo điều kiện cho việc giảm lãi suất cho vay.
“Bốn ngân hàng có vốn nhà nước đã giảm sâu lãi suất thì các ngân hàng thương mại tư nhân không thể đứng ngoài cuộc, mà phải giảm theo”, Phó Thống đốc nói.
Mặc dù vậy, ông Đào Minh Tú cũng thừa nhận vấn đề quan trọng là nghiên cứu giảm lãi suất như thế nào cho phù hợp, chứ không phải cứ giảm lãi suất đã là tốt.
TS. Andrea Coppola, Chuyên gia Kinh tế trưởng của Ngân hàng Thế giới (WB) tại Việt Nam, Campuchia và Lào nhận định: “Chính sách tiền tệ vẫn phải đối mặt với dư địa hạn chế về tiếp tục cắt giảm lãi suất trong trường hợp USD tiếp tục mạnh lên và gây ra áp lực cho tỷ giá”.
Hiện tại, mặt bằng lãi suất huy động VND kỳ hạn 6 tháng là 4,5%/năm, 12 tháng là 5,5%/năm, so với lãi suất USD chính sách của Fed là 4,5%/năm được cho là mức cân bằng. Nhưng, nếu lãi suất huy động VND tiếp tục giảm mạnh và lãi suất chính sách của Fed ở mức cao hơn sẽ tạo áp lực lên tỷ giá.
Chuyên gia đến từ WB cũng cảnh báo, chất lượng tài sản của hệ thống ngân hàng Việt Nam có vẻ tương đối ổn định theo báo cáo nhưng rủi ro vẫn tồn tại, liên quan đến tái cơ cấu thời hạn trả nợ vay, tái cơ cấu nợ vay và giảm dự phòng tổn thất tín dụng.
Theo TS. Nguyễn Trí Hiếu, chuyên gia kinh tế, “chúng ta lại quay về vấn đề quan trọng hơn cả là chất lượng tín dụng. Hiện rủi ro của nền kinh tế vẫn còn, do đó, hạ lãi suất có lẽ không hỗ trợ nhiều cho tăng trưởng tín dụng. Nguyên lý hoạt động của ngành tài chính ngân hàng là rủi ro cao thì lợi nhuận phải cao. Do đó, trong bối cảnh hiện nay, ngân hàng phải cho vay với lãi suất cao để bù trừ cho rủi ro. Rủi ro của nền kinh tế tăng các ngân hàng không thể hạ lãi suất thêm được”.
Chấp nhận tỷ giá dao động trong biên độ lớn hơn
Chính sách tiền tệ vẫn phải đối mặt với dư địa hạn chế về tiếp tục cắt giảm lãi suất trong trường hợp USD tiếp tục mạnh lên và gây ra áp lực cho tỷ giá.
TS. Andrea Coppola, Chuyên gia Kinh tế trưởng của Ngân hàng Thế giới (WB) tại Việt Nam, Campuchia và Lào
Nhìn lại diễn biến thị trường ngoại hối trong tháng 2, bà Trần Thị Khánh Hiền, Giám đốc Khối Nghiên cứu Công ty Chứng khoán MB (MBS) cho biết, tỷ giá biến động mạnh mẽ trong suốt tháng dưới áp lực từ nhiều yếu tố. Về các yếu tố bên ngoài, mặc dù đồng USD suy yếu trong tháng 2 nhưng vẫn dao động ở ngưỡng cao nên gây ra áp lực nhất định lên tỷ giá hối đoái. Cùng với đó, tỷ giá cũng phải chịu áp lực từ nhu cầu ngoại tệ trong nước gia tăng khi các doanh nghiệp đẩy mạnh nhập khẩu tư liệu sản xuất.
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, trong tháng 2, Việt Nam ghi nhận thâm hụt thương mại lần đầu tiên kể từ tháng 5/2024, với kim ngạch nhập khẩu tăng 40% so với cùng kỳ. Bên cạnh đó, Kho bạc Nhà nước trong tháng có 3 đợt chào mua USD từ các ngân hàng thương mại với tổng trị giá lên đến 500 triệu USD phần nào khiến nguồn cung ngoại tệ càng bị thắt chặt và gây thêm áp lực lên tỷ giá.
Trong bối cảnh này, Ngân hàng Nhà nước đã can thiệp bằng cách liên tục tăng tỷ giá trung tâm, kéo theo trần tỷ giá được nới rộng. Kể từ đầu tháng 2 tới nay, tỷ giá trung tâm đã tăng tổng cộng 401 đồng/USD, tương đương 1,6% - mức điều chỉnh rất mạnh so với mức tăng 487 đồng của cả năm 2024.
Bên cạnh đó, Ngân hàng Nhà nước cũng có động thái mới khi không còn thiết lập mức chặn cứng cho tỷ giá liên ngân hàng ở mức 25.450 VND/USD như giai đoạn trước đó nữa. Vào ngày 11/2/2025, nhà điều hành đã tăng mạnh giá bán USD can thiệp lần đầu tiên kể từ cuối tháng 10/2024, lên mức 25.698 VND/USD và liên tục thả nổi giá bán USD theo tỷ giá trung tâm khi duy trì ở mức thấp hơn 50 đồng/USD so với tỷ giá trần mà các ngân hàng được phép giao dịch.
“Động thái này cho thấy tín hiệu về việc Ngân hàng Nhà nước đang chấp nhận một mức biến động tỷ giá mạnh hơn nhằm giảm bớt áp lực lên dự trữ ngoại hối sau khi phải bán ra hơn 9 tỷ USD trong năm vừa qua”, bà Hiền nói.
Tuy nhiên, tỷ giá liên ngân hàng vẫn tăng 1,9% trong tháng lên mức 25.557 VND/USD vào cuối tháng 2. Tỷ giá trên thị trường tự do tăng lên mức 25.720 VND/USD, trong khi tỷ giá trung tâm niêm yết tại 24.726 VND/USD, tương ứng mức giảm 0,1% và tăng 1,6% so với đầu năm 2025.
Báo cáo của Bộ phận Nghiên cứu thị trường và Kinh tế toàn cầu, Ngân hàng UOB (Singapore) vừa công bố nhận định, với nền kinh tế tiếp tục tăng trưởng mạnh mẽ trong năm 2024 và kéo dài sang năm 2025, cùng với việc Fed có xu hướng giữ nguyên chính sách, Ngân hàng Nhà nước không chịu áp lực phải nới lỏng chính sách trong ngắn hạn. Trong khi đó, lạm phát đã tăng lên 3,6% trong năm 2024 từ mức 3,26% của năm 2023, dù vẫn thấp hơn mục tiêu 4,5%. Tuy nhiên, với nguy cơ căng thẳng thương mại gia tăng trên toàn cầu trong nhiệm kỳ Tổng thống Mỹ thứ hai của ông Donald Trump và sức mạnh của USD trở thành mối lo ngại mới, Ngân hàng Nhà nước dự kiến sẽ theo dõi chặt chẽ các áp lực giảm giá đối với VND. Do đó, quyết định hợp lý nhất ở thời điểm hiện tại là duy trì lãi suất tái cấp vốn ở mức 4,5%/năm.
Diễn biến thực tế trên thị trường cho thấy, VND đã giảm xuống mức thấp kỷ lục, khoảng 25.600 VND đổi 1 USD vào đầu tháng 3, sau khi Ngân hàng Nhà nước tăng giá bán USD cho các ngân hàng lên 25.698 VND/USD từ 25.450 VND/USD, đánh dấu lần điều chỉnh đầu tiên kể từ tháng 10 năm ngoái. Từ đây, xu hướng vẫn nghiêng về khả năng VND tiếp tục suy yếu do những bất ổn liên quan đến tăng trưởng của Trung Quốc và chính sách thuế quan của Mỹ. Theo UOB, có nguy cơ Mỹ sẽ áp thuế lên hàng hóa Việt Nam do thặng dư thương mại của Việt Nam với Mỹ đang gia tăng đáng kể. Tuy nhiên, một số yếu tố có thể giúp giảm áp lực mất giá của VND, bao gồm triển vọng tăng trưởng nội địa mạnh mẽ và cam kết của Ngân hàng Nhà nước trong việc đảm bảo ổn định tỷ giá.
“Nhìn chung, dự báo cập nhật của chúng tôi về tỷ giá USD/VND là 25.800 trong quý II/2025, 26.000 trong quý III/2025, 25.800 trong quý IV/2025 và 25.600 trong quý I/2026”, báo cáo của UOB nhận định.