Cần điều chỉnh các quy định về cho vay đối với DNVVN

Cần điều chỉnh các quy định về cho vay đối với DNVVN

Gian nan bài toán hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ

(ĐTCK) Số liệu thống kê đáng lo ngại về tình hình đăng ký và chấm dứt hoạt động của các DN vừa được công bố khiến câu chuyện hỗ trợ các DN nói chung, khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) nói riêng lại được các chuyên gia kinh tế nhắc đến, với nhiều vấn đề nan giải đặt ra.

Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, trong 7 tháng đầu năm 2014, cả nước có 42.398 DN đăng ký thành lập mới, giảm 7% so với cùng kỳ năm ngoái. Trong khi đó, số DN gặp khó khăn buộc phải giải thể, hoặc tạm ngừng hoạt động trong 7 tháng là 37.612 DN, tăng 9,8%. Chỉ tính riêng trong tháng 7/2014, số DN khó khăn buộc phải giải thể, hoặc đăng ký tạm ngừng hoạt động là 4.931 DN, trong đó phần lớn vẫn là các DNVVN.

Ông Lê Đức Thọ, Tổng giám đốc Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam cho rằng, xét trong bối cảnh hiện nay, có 2 nguyên nhân chính dẫn tới hiện trạng trên. Thứ nhất là nguyên nhân nội tại của các DNVVN như năng lực sản xuất thấp, trình độ quản lý yếu kém, quản trị sản xuất, kế hoạch sản xuất, kế hoạch phân phối hàng hóa chưa hoạch định được, dẫn đến không kiểm soát được hiệu quả sản xuất - kinh doanh, khó có khả năng cạnh tranh được trên thị trường.

Đặc biệt, đứng ở góc độ thực tế của bên cung cấp tài chính, theo ông Thọ, vấn đề thiếu vốn cho hoạt động sản xuất - kinh doanh là khó khăn lớn nhất khiến nhiều DNVVN “sống dở, chết dở”.

“Hiện chỉ có 30% DNVVN tiếp cận được vốn ngân hàng, 70% còn lại phải sử dụng vốn tự có hoặc vay từ nguồn khác, với chi phí vốn rất cao. Đây là hệ lụy của vấn đề nợ xấu gia tăng và năng lực cạnh tranh của DNVVN còn yếu kém, báo cáo tài chính thiếu minh bạch, không có nhiều tài sản bảo đảm tốt nên các ngân hàng thương mại ngại rủi ro, chưa mạnh dạn tăng trưởng tín dụng với đồng loạt các DNVVN, mà chỉ tập trung vào một số DN tốt, có thế mạnh nhất định. Điều đó cũng lý giải việc các ngân hàng thương mại thắt chặt điều kiện vay vốn, khiến rất ít DNVVN đáp ứng được điều kiện cấp tín dụng”, ông Thọ nói.

Nguyên nhân thứ hai xuất phát từ các yếu tố khách quan về môi trường kinh doanh, tình trạng khó khăn của nền kinh tế và một số chính sách chưa hợp lý khiến DNVVN không tìm được đầu ra cho sản phẩm. Không ít DN chia sẻ, trong giai đoạn kinh tế khó khăn, người tiêu dùng thắt chặt chi tiêu, DN tìm đủ cách để kích cầu tiêu dùng nhưng chưa có dấu hiệu cải thiện. Trong khi đó, các DNVVN không đủ điều kiện tiếp cận với các chương trình kích cầu tiêu dùng và xúc tiến thương mại mà Chính phủ hỗ trợ.

“Chúng tôi khó có thể tham gia các chương trình hội chợ vì chi phí lớn. Còn các chương trình kích cầu của Chính phủ, DN chưa đủ nguồn lực tài chính để tiếp cận”, giám đốc một DN tư nhân cho biết.

Trước thực trạng này, quan điểm chung của các chuyên gia kinh tế là để hỗ trợ các DNVVN phát triển, cần sự chung tay của nhiều đơn vị liên quan, đòi hỏi sự kết hợp đồng bộ giữa các giải pháp hỗ trợ từ phía Nhà nước, các cơ quan chức năng, từ ngân hàng và bản thân các DNVVN. Theo đó, về phía cơ quan nhà nước, cần tăng cường các chính sách hỗ trợ được thiết kế phù hợp cho từng ngành, từng vùng miền, từng quy mô sản xuất, đặc biệt đối với các DNVVN. Đồng thời, thiết lập hệ thống thông tin về thị trường, giá cả, dự báo, giúp các DNVVN có hướng sản xuất, tiêu thụ sản phẩm. Xây dựng các chương trình xúc tiến thương mại và quảng bá thương hiệu cho các DNVVN với chi phí hợp lý.

Bên cạnh đó, theo chuyên gia kinh tế Vũ Đình Ánh, cần tạo kênh tiếp cận nguồn vốn tín dụng nhằm hỗ trợ khu vực DNVVN, khu vực DN tư nhân phát triển sản xuất - kinh doanh. Ông Ánh đề xuất thành lập Trung tâm dịch vụ tín dụng, thực hiện chức năng cầu nối giữa DN với tổ chức tín dụng thông qua các hoạt động tuyên truyền, phổ biến thông tin về tín dụng, hướng dẫn và hỗ trợ DN lập hồ sơ vay vốn, kết nối DN với Quỹ bảo lãnh tín dụng, với cơ quan chức năng liên quan đến tín dụng...

Liên quan đến vai trò của các ngân hàng, ông Thọ cho rằng, cần điều chỉnh các quy định về cho vay đối với DNVVN như điều kiện cấp tín dụng, phân loại nợ và trích lập dự phòng, sử dụng dự phòng rủi ro đối với cho vay DNVVN.

“NHNN có thể xem xét ban hành các chính sách hỗ trợ ngân hàng thương mại như giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc, lãi suất tái cấp vốn nhằm tạo điều kiện có khoản vốn ưu đãi để ngân hàng sử dụng cho vay DNVVN, đặc biệt là các ngân hàng có tỷ trọng dư nợ cho vay đối với DNVVN cao. Đồng thời, có các giải pháp ưu tiên nguồn vốn phát triển DNVVN, hỗ trợ nguồn vốn dài hạn với giá hợp lý, để các ngân hàng hoà chung với nguồn vốn huy động phục vụ cho vay DNVVN”, ông Thọ nói.

Tin bài liên quan