Nga là nhà cung cấp than nhiệt hàng đầu của châu Âu, được sử dụng để cung cấp nhiên liệu cho các nhà máy điện. Khi Liên minh châu Âu (EU) tham gia với Mỹ để có lập trường cứng rắn trong việc đưa ra các lệnh cấm vận, lục địa này có kế hoạch loại bỏ dần các lô hàng của Nga. Vấn đề là không có giải pháp thay thế rõ ràng nào cho mảng thương mại khổng lồ đó và kết quả dường như dẫn đến hiệu ứng domino tạo ra một cuộc tranh giành than điên cuồng trên toàn cầu.
Than châu Âu đã tăng 14% lên mức cao nhất trong ba tuần vào thứ Ba (5/4) sau tin tức về lệnh cấm được đề xuất, với hợp đồng tương lai giá than châu Âu đã tăng gấp đôi kể từ đầu năm. Giá than châu Á cũng đạt mức cao nhất mọi thời đại vào tháng 3, trong khi than Mỹ đạt mức 100 USD/tấn vào tuần trước lần đầu tiên sau 13 năm.
Fabian Ronningen, nhà phân tích tại Công ty Tư vấn Rystad Energy của Na Uy cho biết: “Lệnh cấm vận được đề xuất sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến nhập khẩu than của châu Âu. Một số than có thể được lấy từ các thị trường khác, nhưng nhìn chung, thị trường than toàn cầu cũng rất eo hẹp”.
Không chỉ là nguồn cung bị khan hiếm, những phức tạp về hậu cần khi chuyển hướng nhanh chóng đến các nhà cung cấp mới cũng đang là vấn đề. Vị trí gần châu Âu của Nga từ lâu đã là một lợi thế của khu vực này trong một thị trường phụ thuộc vào các chuyến hàng nặng kéo dài nhiều ngày. Giờ đây, người mua châu Âu sẽ phải tìm kiếm nơi khác, trải dài nguồn cung từ các quốc gia xa xôi như Nam Phi, Úc và Indonesia với chất lượng than khác nhau.
Các quốc gia xuất khẩu than nhiều nhất năm 2021 |
Jake Horslen, nhà phân tích tại S&P Commodities Insights cho biết: “Than của Nga là loại gần nhất, rẻ nhất và ở một số thị trường như Đức là loại than phù hợp nhất, xét về hàm lượng nhiệt và lưu huỳnh để cung cấp năng lượng cho các nhà máy ở châu Âu. Một lệnh cấm của EU sẽ đặt ra một thách thức đáng kể đối với những người mua cần tìm kiếm các giải pháp thay thế”.
Về lâu dài, than đá là loại nhiên liệu hóa thạch bẩn nhất nên có ít tiềm năng tăng trưởng nhất. Nhưng hiện tại, thị trường than đang bùng nổ khi châu Âu đối mặt với tình trạng suy thoái nguồn cung cấp khí đốt tự nhiên và mức tiêu thụ nhiên liệu tăng cao trong đợt bùng nổ phục hồi đại dịch. Theo tổ chức nghiên cứu Ember, lượng khí thải carbon toàn cầu từ ngành điện đã tăng lên mức kỷ lục vào năm ngoái, một phần do đốt than nhiều.
Trong khi đó, đẩy mạnh sản xuất than để đáp ứng nhu cầu là một thách thức lớn. Thị trường đã bị ảnh hưởng bởi sự gián đoạn đường sắt, sự bùng phát của Covid-19 và thậm chí là lệnh cấm xuất khẩu tạm thời từ Indonesia, nước xuất khẩu lớn nhất thế giới.
Các nhà phân tích của Bank of America đã viết trong một lưu ý trong tháng này: “Sự gián đoạn nguồn cung than của Nga chỉ là sự cố mới nhất trong một làn sóng các vấn đề về nguồn cung đã ảnh hưởng đến thị trường kể từ đầu năm ngoái”.
Bất kỳ lệnh trừng phạt nào đối với than của Nga sẽ gây áp lực lên nguồn cung, vốn đã căng thẳng của châu Âu. Theo khảo sát hàng tuần của Argus Media, than được lưu trữ ở các cảng Amsterdam, Rotterdam và Antwerp vẫn ở mức thấp nhất trong mùa trong vòng ít nhất 6 năm.
Châu Âu mua hai loại than từ Nga bao gồm nhiệt điện được sử dụng cho các nhà máy điện và luyện kim được sử dụng trong sản xuất thép. Thị phần của Nga trong nhập khẩu than nhiệt của EU là gần 70%, trong đó Đức và Ba Lan đặc biệt phụ thuộc vào than nhiệt của Nga.
Tháng trước, công ty năng lượng Đức EnBW Energie Baden-Wuerttemberg AG cho biết, họ đã bắt đầu đa dạng hóa việc mua sắm than để giảm sự phụ thuộc vào Nga và việc chuyển đổi hoàn toàn sẽ chỉ có thể thực hiện được trong trung hạn. Năm ngoái, công ty phụ thuộc vào Nga với hơn 80% lượng than cũng cho biết việc mua sắm nhiên liệu ở các nước bao gồm Úc và Nam Phi sẽ tốn kém hơn.
Trong khi Mỹ đã can thiệp để giúp châu Âu loại bỏ khí đốt của Nga, thì điều này khó có thể làm được điều tương tự với than đá. Các công ty khai thác đã bán phần lớn sản lượng của họ theo các hợp đồng dài hạn và không thể tăng sản lượng vì họ đã đóng cửa các mỏ trong nhiều năm. Những vấn đề đó càng trở nên trầm trọng hơn do tình trạng thiếu công nhân và những thách thức về hậu cần khiến việc vận chuyển khối lượng lớn từ các mỏ đến cảng trở nên khó khăn hơn.
Andrew Blumenfeld, Giám đốc Phân tích dữ liệu của Công ty nghiên cứu thị trường McCloskey cho biết: “Có rất nhiều lời kêu gọi đối với hàng xuất khẩu của Mỹ, nhưng thật khó để đưa than ra khỏi quốc gia này”.
Ngay cả trước các lệnh trừng phạt, các công ty năng lượng châu Âu đã phải vật lộn để có được than đá của Nga. Nhiều ngân hàng đã từ chối cấp vốn cho hoạt động kinh doanh hàng hóa, buộc một số công ty tiện ích lớn nhất của lục địa này phải mua than ở Nam Phi và Úc.
Các nhà phân tích của Bank of America cho biết, sự gia tăng xuất khẩu từ các quốc gia như Indonesia “có thể giúp bù đắp lượng hàng bị mất từ Nga”, đồng thời cảnh báo rằng “điều đó sẽ không bù đắp được sự khác biệt về chất lượng”.
Các nhà phân tích cho biết: “Với các vấn đề về nguồn cung, thị trường sẽ phải cân bằng thông qua việc phá hủy nhu cầu”.