Cá tra có tỷ lệ sử dụng C/O EUR.1 cao nhất, chiếm 87% kim ngạch xuất khẩu cá tra sang EU27, trị giá 50,3 triệu USD.
Dù xuất khẩu chịu nhiều ảnh hưởng từ đợt dịch Covid-19 bùng phát từ nhiều tháng nay, khiến các nhà máy sản xuất tại phía Nam phải tạm dừng sản xuất nhưng với hoạt động xuất khẩu sang EU, các doanh nghiệp Việt Nam đang nỗ lực đáp ứng quy tắc xuất xứ để gia tăng hiệu quả tận dụng ưu đãi thuế quan từ Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA).
8 tháng đầu năm 2021 xuất khẩu thủy sản đạt gần 5,6 tỷ USD, tăng 7% nhờ kết quả xuất khẩu 7 tháng đầu năm tăng cao. Trong đó, xuất khẩu sang Mỹ vẫn duy trì được mức tăng trưởng gần 27%, sang EU tăng 10%, sang Hàn Quốc tương đương cùng kỳ năm ngoái. Trong top 5 thị trường, xuất khẩu sang Trung Quốc giảm sâu 14,6%, Nhật Bản giảm gần 3%.
Đã có những tín hiệu ghi nhận sự nỗ lực của doanh nghiệp thủy sản trong việc tận dụng ưu đãi thuế quan nhờ đáp ứng tốt quy tắc xuất xứ trong hoạt động xuất khẩu sang EU.
Số liệu từ Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương), 6 tháng đầu năm 2021, kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam sang EU được các cơ quan, tổ chức cấp C/O mẫu EUR.1 theo EVFTA đạt xấp xỉ 336,9 triệu USD, chiếm khoảng 69,4% trên tổng kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam sang thị trường EU (đạt trên 485,3 triệu USD). Trong đó, thuỷ sản thô, sơ chế chiếm 65,3% và thuỷ sản chế biến chiếm 34,7%.
Đức và Hà Lan là hai thị trường nhập khẩu thuỷ sản của Việt Nam có trị giá C/O mẫu EUR.1 được cấp lớn nhất, đạt lần lượt 69,4 triệu USD và 67,2 triệu USD, chiếm tỷ trọng lần lượt là 20,6% và 20% trong tổng trị giá C/O mẫu EUR.1 đối với mặt hàng thủy sản.
Các mặt hàng thuỷ sản có kim ngạch xuất khẩu sử dụng C/O mẫu EUR.1 cao bao gồm: tôm sơ chế (HS 0306.17), tôm chế biến (HS 1605.21 và 1605.29), cá phi lê đông lạnh (HS 0304.62, 0304.87 và 0304.99), mực đông lạnh (HS 0307.43), cá ngừ chế biến (HS 1604.14) và ngao, sò chế biến (HS 1605.56).
Theo Cục Xuất nhập khẩu, việc mở rộng và duy trì nguồn cung nguyên liệu trong nước nhằm đáp ứng quy tắc xuất xứ hàng hóa, đặc biệt trong bối cảnh chuỗi cung ứng toàn cầu đang bị đứt gãy do ảnh hưởng của Covid-19, là yếu tố then chốt để ngành thủy sản của Việt Nam có thể tăng trưởng xuất khẩu tại thị trường EU nhờ cú hích từ EVFTA.
Xét về tỷ lệ kim ngạch xuất khẩu có C/O ưu đãi trong tổng kim ngạch xuất khẩu, cá tra (cá da trơn) có tỷ lệ sử dụng C/O cao nhất, đạt 50,3 triệu USD, chiếm 87% kim ngạch xuất khẩu cá tra sang EU2 (57,8 triệu USD) trong 6 tháng đầu năm 2021.
"Những mặt hàng thuỷ sản có kim ngạch sử dụng C/O mẫu EUR.1 đều là những mặt hàng thuỷ sản xuất khẩu truyền thống và chủ lực của Việt Nam sang thị trường EU", Bộ Công Thương cho hay.
EU là một trong những thị trường xuất khẩu thuỷ sản lớn nhất của Việt Nam trong nhiều năm. Thuế suất thuế nhập khẩu đối với thuỷ sản vào thị trường EU tương đối cao, từ 5 đến 20% đối với thuỷ sản thô, sơ chế và từ 5,5 đến 26% đối với thuỷ sản chế biến.
Trong Hiệp định EVFTA, ngoại trừ cá ngừ đóng hộp và chả cá surimi EU áp dụng hạn ngạch thuế quan (lần lượt là 11,5.000 tấn và 500 tấn), các mặt hàng thuỷ sản còn lại được EU cam kết xoá bỏ thuế quan với lộ trình dài nhất là 7 năm. Như vậy, cơ hội để ngành thuỷ sản Việt Nam mở rộng thị trường tại EU thông qua việc tận dụng ưu đãi từ Hiệp định EVFTA là rất lớn.
Để được hưởng ưu đãi thuế quan từ Hiệp định EVFTA, thuỷ sản của Việt Nam phải đáp ứng các quy định về quy tắc xuất xứ hàng hóa theo Hiệp định này và được cấp Giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa (C/O) mẫu EUR.1 theo EVFTA.
Theo Cục Xuất nhập khẩu, mặc dù thị trường EU là một thị trường xuất khẩu lớn của ngành thủy sản Việt Nam và được kỳ vọng sẽ được mở rộng và phát triển hơn nữa khi Việt Nam thực thi Hiệp định EVFTA, quy tắc xuất xứ đối với thủy sản trong Hiệp định này cũng đang là một thách thức đối với các nhà sản xuất, xuất khẩu thủy sản của Việt Nam.
Cụ thể, EVFTA yêu cầu sản phẩm thủy sản phải có xuất xứ thuần túy từ Việt Nam hoặc sử dụng nguyên liệu có xuất xứ thuần túy được nhập khẩu từ EU.
Điều này có nghĩa là nguyên liệu thủy sản dùng cho thủy sản sơ chế hoặc chế biến phải được nuôi dưỡng, thu hoạch hoặc đánh bắt tại Việt Nam hoặc nhập khẩu có xuất xứ từ EU. Trong khi đó, nguồn nguyên liệu cho thủy sản chế biến hiện nay của Việt Nam vẫn phụ thuộc nhiều vào nhập khẩu, đặc biệt là tôm và EU không phải là thị trường nhập khẩu nguyên liệu thủy sản phục vụ cho sản xuất xuất khẩu trong nước.
Do năng lực sản xuất, kinh doanh, nguồn hàng nguyên liệu cho sản xuất của ngành thủy sản Việt Nam trong ngắn hạn chưa thể đáp ứng hoàn toàn tiêu chí xuất xứ thuần túy của Hiệp định EVFTA, các doanh nghiệp được khuyến nghị là tập trung phát triển mạnh nguồn nguyên liệu trong nước để tận dụng ưu đãi thuế quan từ các FTA.
Số liệu của Cơ quan quan sát thị trường thủy sản châu Âu (EUMOFA), kim ngạch nhập khẩu thủy sản từ các nước ngoài khối của EU đạt 27,21 tỷ Euro trong năm 2019 với sản lượng nhập khẩu lên đến 6,34 triệu tấn. Việt Nam chỉ chiếm 4% trong thị phần nhập khẩu thủy sản tại EU với mặt hàng nhập khẩu chính là tôm. Mặc dù chất lượng tôm của Việt Nam được đánh giá tốt tại thị trường EU nhưng giá cả lại kém cạnh tranh hơn so với các đối thủ khác như Ecuado và Ấn Độ.
Với cam kết giảm thuế về 0% cho các mặt hàng thủy sản (trong đó có tôm) của EU dành cho Việt Nam trong Hiệp định EVFTA, thủy sản xuất khẩu nói chung và tôm xuất khẩu nói riêng của Việt Nam sẽ có lợi thế về thuế quan và do đó có thể điều chỉnh giá cạnh tranh hơn trong thời gian sắp tới.