Bà có nhận định gì về lợi nhuận các ngân hàng bị kéo giảm sau khi báo cáo tài chính 6 tháng đầu năm 2023 đã được công bố?
Tổng lợi nhuận sau thuế của các ngân hàng niêm yết giảm 1,4% trong quý II/2023, có sự cải thiện so với mức giảm gần 6% của quý I đầu năm. Lũy kế 6 tháng, tổng lợi nhuận sau thuế các ngân hàng giảm 3%. Nhóm các ngân hàng thương mại cổ phần nhà nước ghi nhận kết quả kinh doanh khả quan hơn, với mức tăng trưởng 16,8%, trong khi lợi nhuận nhóm các ngân hàng thương mại tư nhân giảm 10%.
Nhìn chung, tổng thu nhập hoạt động của toàn ngành gần như đi ngang trong 6 tháng đầu năm 2023. Trong đó, thu nhập từ lãi tăng 6% và chiếm 79% tổng thu nhập; thu nhập ngoài lãi giảm 15%, chủ yếu do thu nhập từ kênh bancassurance suy giảm, trong bối cảnh Bộ Tài chính tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát đối với hoạt động phân phối bảo hiểm qua ngân hàng kể từ cuối tháng 2 năm nay.
Yếu tố lớn nhất kéo giảm lợi nhuận của các ngân hàng thương mại trong nửa đầu năm 2023 đến từ chi phí trích lập dự phòng tăng mạnh. Trong khi tổng thu nhập hoạt động của ngân hàng gần như đi ngang, thì chi phí trích lập dự phòng tăng hơn 8% so với cùng kỳ năm ngoái. Việc chi phí trích lập dự phòng gia tăng trong những quý gần đây không nằm ngoài dự báo, do áp lực nợ xấu tăng - hệ quả tình trạng kinh doanh khó khăn của các doanh nghiệp, nhất là lĩnh vực bất động sản, xuất khẩu.
Bà Trần Thị Khánh Hiền, Giám đốc Nghiên cứu, Công ty Chứng khoán MB |
Chất lượng tài sản của các ngân hàng là điểm đáng lưu ý, nhìn từ kết quả kinh doanh 6 tháng đầu năm 2023. Theo số liệu báo cáo hoạt động kinh doanh của các ngân hàng, tỷ lệ nợ xấu nội bảng toàn ngành đã tăng lên mức 2,9% vào cuối quý I/2023 so với mức 2% cuối năm 2022, nợ nhóm 2 tăng đột biến hơn 100% so với cùng kỳ. Một vài ngân hàng có tỷ lệ nợ xấu đáng quan ngại khi tăng vọt lên 25% vào cuối quý II/2023.
Các ngân hàng có mô hình kinh doanh tập trung vào bán lẻ và cho vay tiêu dùng đều ghi nhận tỷ lệ nợ xấu cuối quý II/2023 tăng mạnh so với cuối năm 2022 như ABBank tăng từ 2,9% lên 4,6%, ngân hàng mẹ VPBank tăng từ 2,8% lên 3,9%, VIB tăng tăng từ 2,5% lên 3,6%. Bên cạnh đó, tỷ lệ bao phủ nợ xấu của toàn ngành suy giảm từ mức 105% cuối năm ngoái xuống 84% vào cuối quý II năm nay, tỷ lệ này tương đương với giai đoạn 2019 - 2020.
Ngày 24/4/2023, Ngân hàng Nhà nước đã ban hành Thông tư 02/2023/TT-NHNN cho phép các tổ chức tín dụng chủ động cơ cấu lại thời hạn trả nợ và giữ nguyên nhóm nợ khi đáp ứng một số điều kiện cụ thể với thời hạn 1 năm kể từ ngày được cơ cấu lại nhằm hỗ trợ khách hàng gặp khó khăn về tài chính, đồng thời được tiếp cận nguồn vốn vay mới nhằm tiếp tục hoạt động sản xuất - kinh doanh, việc này được thực hiện đến hết tháng 6/2024. Đây được xem là một trong những giải pháp nhằm tháo gỡ khó khăn về thanh khoản cho các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp bất động sản, trong bối cảnh khó tiếp cận các nguồn vốn (vốn vay, vốn huy động từ trái phiếu, cổ phiếu). Do đó, một số khoản nợ đã trở thành nợ xấu, song do được cơ cấu nợ, giữ nguyên nhóm nợ, nên xu hướng nợ nhóm 2 tăng có thể sẽ tiếp tục diễn ra trong các quý tới.
Theo bà, những yếu tố nào sẽ tác động đến lợi nhuận của các ngân hàng thương mại trong 6 tháng cuối năm 2023?
Chi phí trích lập dự phòng gia tăng do áp lực nợ xấu, hệ quả kinh doanh khó khăn của các doanh nghiệp, nhất là lĩnh vực bất động sản, xuất khẩu.
Một trong những yếu tố lớn nhất tác động đến triển vọng lợi nhuận của các ngân hàng trong thời gian tới là tăng trưởng tín dụng. Theo số liệu của Ngân hàng Nhà nước, tính đến cuối tháng 6/2023, dư nợ tín dụng đạt xấp xỉ 12,4 triệu tỷ đồng, tăng 4,2% so với đầu năm nay. Kết quả này chưa bằng một nửa con số tăng trưởng 9,4% của cùng kỳ năm ngoái, cũng như cách khá xa so với mục tiêu tăng 14 - 15% mà Ngân hàng Nhà nước đặt ra cho cả năm.
Tuy nhiên, tín dụng sẽ tăng tốc nhanh hơn trong nửa cuối năm 2023, dựa trên một số yếu tố tích cực. Thứ nhất, xuất khẩu có khả năng phục hồi tăng trưởng trên nền thấp cùng kỳ năm ngoái, cũng như nhu cầu tiêu dùng của Trung Quốc gia tăng khi mở cửa toàn bộ nền kinh tế sau dịch Covid-19. Thứ hai, hiệu ứng từ lãi suất cho vay giảm bắt đầu kích hoạt lại nhu cầu vay vốn của doanh nghiệp và người dân. Các chính sách tài khoá như giảm thuế giá trị gia tăng từ 10% về 8%, đề xuất giảm thuế thu nhập doanh nghiệp… sẽ phát huy tác dụng kích thích nhu cầu tiêu dùng. Bên cạnh đó, huy động tiền gửi nửa đầu năm nay tăng 4,2%, đạt quy mô tương đương dư nợ tín dụng, có nghĩa là thanh khoản dồi dào để các ngân hàng có thể cho vay. Để tăng trưởng tín dụng đạt mục tiêu đề ra, ngày 10/7/2023, Ngân hàng Nhà nước đã nới room tín dụng cho 11 ngân hàng thương mại lên 11 - 24%.
Nhưng không phải ngân hàng nào cũng có thể đẩy mạnh tín dụng?
Đúng vậy. Một trong những lý do chính mà một số ngân hàng không đẩy mạnh cho vay trong nửa đầu năm 2023 là tỷ lệ nợ xấu đã vượt lên trên 3%, buộc ngân hàng phải cân nhắc trong các quyết định cho vay. Theo khảo sát gần đây của Ngân hàng Nhà nước, mặt bằng rủi ro tín dụng tổng thể của khách hàng được các tổ chức tín dụng nhận định tăng nhanh hơn so với kỳ trước và cùng kỳ năm trước ở hầu hết các lĩnh vực. Theo đó, các tổ chức tín dụng có xu hướng “không đổi” hoặc “thắt chặt” nhẹ tiêu chuẩn tín dụng. Vì vậy, tôi cho rằng, các ngân hàng có tỷ lệ nợ xấu thấp, chi phí vốn thấp có khả năng đẩy mạnh tín dụng trong nửa cuối năm nay.
Tôi cũng cho rằng, chi phí trích lập dự phòng sẽ duy trì đà tăng do các ngân hàng thương mại thường mạnh tay xóa nợ xấu vào các quý cuối năm nhằm đưa tỷ lệ nợ xấu xuống dưới ngưỡng 3%. Ngoài ra, một số ngân hàng có chính sách cẩn trọng hơn khi xếp loại nợ xấu theo Thông tư 02/2023/TT-NHNN, song vẫn trích lập đầy đủ.
Đáng chú ý, biên lãi ròng (NIM) của các ngân hàng niêm yết suy giảm trong quý II/2023. Điều này phần nào đã được dự báo trước khi lãi suất huy động được điều chỉnh giảm song vẫn neo ở mức cao so với trước dịch Covid-19, trong khi lãi suất cho vay đi xuống trong bối cảnh cầu tín dụng thấp và thực hiện chỉ đạo của Ngân hàng Nhà nước về hỗ trợ các doanh nghiệp. Theo quan sát của tôi, trong nửa đầu năm 2023, các ngân hàng thương mại niêm yết ghi nhận NIM giảm phổ biến từ 1 - 1,5% so với cùng kỳ năm ngoái.
Trong bối cảnh nhu cầu vay vốn chưa thật sự phục hồi, các doanh nghiệp còn chần chừ trong việc mở rộng sản xuất - kinh doanh do quan ngại về triển vọng kinh tế, cạnh tranh về thị phần tín dụng sẽ trở nên gay gắt hơn. Vì vậy, việc cạnh tranh để cho vay các doanh nghiệp tốt sẽ là cuộc đua giữa các ngân hàng. Theo đó, nhiều khả năng NIM sẽ tiếp tục suy giảm trong hai quý cuối năm nay.