Từ cơ chế, chính sách…
Khu vực DNNN hiện đã có cơ cấu hợp lý hơn, tập trung hơn vào những ngành, lĩnh vực then chốt, địa bàn quan trọng mà Nhà nước cần nắm giữ hoặc những lĩnh vực mà DN thuộc các thành phần kinh tế khác ít hoặc chưa tham gia. Số lượng DNNN đã giảm mạnh từ khoảng 5.655 DN 100% sở hữu nhà nước vào đầu năm 2000 xuống còn khoảng 1.200 DN đầu năm 2014. Hầu hết DNNN sau khi cổ phần hóa hoạt động có hiệu quả hơn so với trước khi chuyển đổi.
Tuy nhiên, có thể thấy, việc sắp xếp và cổ phần hoá DNNN còn chậm; phân định chức năng quản lý nhà nước và quản lý của chủ sở hữu nhà nước còn chưa rõ; cơ chế quản lý, giám sát của chủ sở hữu còn nhiều tồn tại. Cơ cấu ngành, lĩnh vực chưa hợp lý, dàn trải, đầu tư ra ngoài ngành kém hiệu quả; có tình trạng một số DN gây lãng phí và thất thoát vốn và tài sản nhà nước. Năng lực quản trị DN của nhiều DNNN vẫn còn hạn chế, chậm đổi mới...
Trước thực trạng đó, ngày 17/7/2012, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 929/2012/QĐ-TTg về phê duyệt “Đề án tái cơ cấu DNNN, trọng tâm là tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước giai đoạn 2011 - 2015”. Đề án xác định tập trung vào 2 mục tiêu chính là: (i) DNNN có cơ cấu hợp lý hơn, tập trung vào ngành, lĩnh vực then chốt, cung cấp sản phẩm, dịch vụ công ích thiết yếu cho xã hội và quốc phòng, an ninh. (ii) Nâng cao sức cạnh tranh, tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu đối với DN kinh doanh; hoàn thành nhiệm vụ sản xuất, cung ứng các sản phẩm, dịch vụ công ích thiết yếu cho xã hội, quốc phòng, an ninh đối với DN hoạt động công ích.
Để triển khai mục tiêu trên, trong 2 năm vừa qua, Chính phủ, các bộ, ngành đã tập trung xây dựng, hoàn thiện hệ thống thể chế, cơ chế thúc đẩy quá trình tái cơ cấu DNNN.
Thứ nhất, tổng kết Luật Doanh nghiệp năm 2005, xây dựng, bổ sung, hoàn thiện thể chế để quản lý có hiệu quả DNNN và để DNNN hoạt động trong môi trường pháp lý chung, cạnh tranh bình đẳng với DN thuộc các thành phần kinh tế khác.
Cụ thể là quy định về cơ chế đầu tư, kinh doanh vốn nhà nước vào DN, quản lý tài chính đối với DN và cơ chế phân phối lợi nhuận trong DN theo cơ chế thị trường; tăng cường trách nhiệm giải trình của hội đồng thành viên và ban điều hành; hoàn thiện mô hình hoạt động của Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn Nhà nước (SCIC) và Công ty Mua bán nợ và tài sản tồn đọng (DATC), nhằm tăng cường hiệu quả đầu tư vốn Nhà nước tại DN cũng như hỗ trợ cho quá trình cổ phần hoá DNNN; có Nghị định riêng về điều lệ tổ chức hoạt động cho từng tập đoàn kinh tế và một số tổng công ty lớn; tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý tiền lương, tiền thưởng để DN thực sự chủ động trong trả lương, trả thưởng gắn với năng suất lao động, hiệu quả sản xuất - kinh doanh.
Thứ hai, sửa đổi, bổ sung hệ thống cơ chế thúc đẩy tái cơ cấu DNNN như các quy định về cổ phần hoá, bán, giao, giải thể, phá sản DN... Tập trung tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, nhất là về định giá DN, xử lý tài chính, công nợ, đất đai, chế độ đối với người lao động... và ngăn ngừa thất thoát tài sản trong quá trình cổ phần hóa. Phát triển thị trường tài chính, đặc biệt là TTCK, mua bán nợ để thúc đẩy cổ phần hóa.
Thứ ba, hoàn thiện thể chế, cơ chế quản lý của chủ sở hữu nhà nước đối với DNNN. Thực hiện phân công, phân cấp thực hiện các quyền, trách nhiệm, nghĩa vụ của chủ sở hữu nhà nước đối với DNNN và vốn Nhà nước đầu tư vào DN. Trong đó, tập trung làm rõ quyền, trách nhiệm, nghĩa vụ của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, bộ quản lý ngành - cấp trên trực tiếp chủ sở hữu tại tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước, các bộ: Tài chính, Nội vụ, Lao động -Thương binh và Xã hội và hội đồng thành viên, hội đồng quản trị - là chủ sở hữu trực tiếp tại tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước.
Cùng với hệ thống cơ chế, chính sách trên, Thủ tướng Chính phủ cũng giao các bộ, ngành, địa phương tập trung tổ chức rà soát phân loại DN để quyết định tỷ lệ tham gia vốn của Nhà nước; điều chỉnh cơ cấu DNNN, tập trung vào những ngành, lĩnh vực then chốt và địa bàn quan trọng, cung cấp hàng hoá dịch vụ công thiết yếu, công nghiệp nền tảng, các ngành, lĩnh vực có công nghệ cao, sức lan toả lớn; thực hiện thoái vốn Nhà nước ở những công ty cổ phần mà Nhà nước không cần chi phối, yêu cầu đến năm 2015 thoái hết vốn trong các ngành nghề không phải là ngành nghề kinh doanh chính.
... Đến thực tế triển khai
Như vậy, khung khổ pháp lý cho quá trình tái cơ cấu DNNN đã cơ bản hoàn thiện, khắc phục được một số tồn tại, bất cập. Cùng với đó, Thủ tướng Chính phủ đã hoàn thành phê duyệt các đề án sắp xếp, đổi mới DNNN giai đoạn 2011 - 2015 của các bộ, ngành, địa phương, tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước. Theo các đề án này, đến năm 2015, phải cổ phần hóa 432 doanh nghiệp.
Tiếp theo, Thủ tướng đã phê duyệt đề án tái cơ cấu 20/20 tập đoàn kinh tế, tổng công ty thuộc thẩm quyền; các bộ, địa phương phê duyệt đề án tái cơ cấu của tổng công ty trực thuộc. Từ năm 2011 đến hết năm 2013, cả nước đã sắp xếp được 180 DN; trong đó, cổ phần hóa 99 DN, nâng tổng số DN cổ phần hóa từ trước lên 4.065 DN. Riêng trong 9 tháng đầu năm 2014, đã có 92 DN được sắp xếp; trong đó, cổ phần hóa 71 DN (trong đó có Tập đoàn Dệt may và 12 tổng công ty nhà nước). Cũng trong 9 tháng qua, đã thoái 3.488 tỷ đồng vốn đầu tư ngoài ngành, gấp 3,6 lần năm 2013. Tính chung, số vốn đã thoái năm 2013 và 9 tháng năm 2014 đạt 4.453 tỷ đồng trong số hơn 21.000 tỷ đồng vốn đầu tư ngoài ngành.
Và những định hướng sắp tới
Để tiếp tục thực hiện tái cơ cấu DNNN đạt mục tiêu đề ra trong giai đoạn tới, có một số giải pháp lớn cần được triển khai quyết liệt.
Một là, tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách về quản lý DNNN. Trong đó, phân định rạch ròi chức năng quản lý nhà nước và chức năng thực hiện quyền sở hữu. Từ đó, hoàn thiện cơ chế phân cấp thực hiện quyền, nghĩa vụ của chủ sở hữu nhà nước theo nguyên tắc có cơ quan đầu mối chịu trách nhiệm theo dõi, giám sát, tổng hợp tình hình hoạt động, quản lý, sử dụng vốn, tài sản nhà nước của DN.
Bên cạnh đó, cần nghiên cứu ban hành Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất - kinh doanh tại DN, nhằm tạo cơ sở pháp lý cần thiết điều chỉnh bằng luật đối với các hoạt động đầu tư vốn của Nhà nước; trong đó, xác định rõ vốn Nhà nước đầu tư trực tiếp vào DN và việc quản lý giám sát nguồn vốn này từ các cơ quan đại diện chủ sở hữu; đối với việc đầu tư và quản lý phần vốn ở các DN có vốn Nhà nước góp xuống các DN khác (DN cấp II) sẽ do các DN này thực hiện và không xác định là vốn Nhà nước đầu tư xuống.
Hoạt động giám sát cần có cơ chế làm rõ trách nhiệm, nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân được giao thực hiện quyền, nghĩa vụ của chủ sở hữu DN. Bên cạnh đó, cần tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý tiền lương, tiền thưởng trong DNNN để thực sự tạo quyền chủ động cho các DNNN trong trả lương, thưởng gắn với năng suất lao động và hiệu quả sản xuất - kinh doanh.
Hai là, cần đẩy mạnh sắp xếp và cổ phần hóa DNNN. Trong đó, tập trung đẩy mạnh thực hiện phương án sắp xếp, cổ phần hóa giai đoạn 2012 - 2015 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt; tiếp tục thực hiện rà soát theo tiêu chí, danh mục phân loại DNNN mới ban hành kèm theo Quyết định số 37/2014/QĐ-TTg ngày 18/6/2014 của Thủ tướng Chính phủ để bổ sung phương án sắp xếp, cổ phần hóa giai đoạn tới. Tổ chức rà soát và triển khai sắp xếp DNNN theo ngành, lĩnh vực không phân biệt cấp, cơ quan quản lý, trước mắt thực hiện đối với ngành công nghiệp, thương mại, giao thông, xây dựng.
Đồng thời, xem xét hướng dẫn tách bạch DN thực hiện nhiệm vụ công ích và sản xuất - kinh doanh để đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa các DNNN cung ứng sản phẩm dịch vụ công ích trong thời gian tới. Phát triển thị trường tài chính, đặc biệt là TTCK và thị trường mua bán nợ thúc đẩy cổ phần hóa DNNN, tạo điều kiện cho DN tiếp cận và huy động vốn từ thị trường tài chính phục vụ cho tái cơ cấu vốn.
Bãi bỏ hoặc giảm thiểu việc Chính phủ bảo lĩnh tín dụng hoặc cho vay chỉ định đối với DNNN, tạo áp lực buộc tất cả DNNN phải huy động vốn qua cơ chế thị trường. Chính phủ chỉ hỗ trợ tín dụng cho những DNNN hoạt động cung cấp hàng hóa công cộng mà không thu hút được các thành phần kinh tế khác đầu tư hoặc thực hiện nhiệm vụ chính trị do Chính phủ giao.
Để quá trình tái cơ cấu DNNN đạt được hiệu quả, bên cạnh việc hoàn thiện cơ chế, chính sách, cần xác định một số ưu tiên, trọng tâm, trọng điểm. Trong đó, cần xác định một số tập đoàn, tổng công ty nhà nước để thực hiện tái cơ cấu một cách quyết liệt, triệt để, như đẩy nhanh tiến độ thoái vốn đầu tư ngoài ngành kinh doanh chính, tổ chức sắp xếp và tái cấu trúc phù hợp với năng lực quản lý, giám sát và quản trị nâng cao năng lực quản trị DNNN theo hướng phù hợp với các nguyên tắc, thông lệ của thế giới. Đồng thời, gắn trách nhiệm của người đứng đầu với kết quả tổ chức thực hiện đề án tái cơ cấu DN, nhằm đảm bảo hiệu quả và tiến độ. Chỉ có gắn trách nhiệm và có chế tài cụ thể đối với cá nhân, tổ chức có liên quan thì mới tạo ra những điểm đột phá trong tiến trình tái cơ cấu DNNN thời gian tới.