Theo hồ sơ vụ án, ngày 16/10/2007, CTCP Khai thác hạ tầng Vinashin – Hạ Long do ông Nguyễn Thanh Cảnh làm Tổng giám đốc đã ký hợp đồng xây dựng hạ tầng Khu kinh tế Hải Hà với Công ty TNHH một thành viên Công nghiệp tàu thủy Cái Lân (thành viên của Tập đoàn Công nghiệp tàu thủy Việt Nam -Vinashin).
Hạng mục thi công gồm làm đường công vụ và san lấp mặt bằng Nhà máy đóng tàu Hải Hà (tại xã Quảng Điền, huyện Hải Hà, Quảng Ninh). Sau gần 1 năm thực hiện Dự án, Công ty Cái Lân nợ công ty của ông Cảnh tổng số tiền hơn 54,2 tỷ đồng.
Khoảng cuối tháng 10/2008, thông qua bà Trần Thị Việt Hà (sinh năm 1935, ở quận Long Biên, Hà Nội), Lê Đức Tuấn (sinh năm 1974, ở phường Ô Chợ Dừa, quận Đống Đa, cháu họ bà Việt Anh, giám đốc một công ty tư nhân) nắm được thông tin ông Cảnh đang tìm người giúp tác động đến Tập đoàn Vinashin để Công ty Cái Lân trả nợ. Ngay lập tức, Tuấn gọi điện và mạo xưng có quan hệ với Văn phòng Chính phủ, cán bộ cấp cao của Nhà nước.
Anh ta hứa hẹn có thể tác động Tập đoàn Vinashin Việt Nam trả nợ cho công ty của ông Cảnh. Thực chất, Tuấn không có mối quan hệ trên.
Tin tưởng vào Tuấn, ông Cảnh đã thỏa thuận sẽ trích 10 - 15% số tiền đòi nợ được từ Công ty Cái Lân cho Tuấn. Tiếp đó, Tuấn móc ngoặc với đối tượng Nguyễn Văn Hưng (sinh năm 1974, ở huyện Nga Sơn, Thanh Hóa). Đối tượng này bị TAND TP. Hà Nội đưa ra xét xử và tuyên phạt mức án 12 năm tù về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản vào cuối tháng 3/2015. Bị cáo đã kháng án bản án trên.
Trở lại vụ án này, thời điểm đó, nghi can Nguyễn Văn Hưng nói dối đang làm việc tại Tổng cục II – Bộ Quốc phòng. Cả hai thống nhất, Tuấn sẽ chịu trách nhiệm liên hệ với ông Cảnh, yêu cầu ông này giao tiền, hồ sơ, chứng từ để Hưng giải quyết công việc.
Ngày 24/11/2008, ông Cảnh mang hồ sơ, chứng từ vụ việc cùng số tiền 70.000 USD (tương đương 1,1 tỷ đồng) đi từ Quảng Ninh đến khách sạn ở Hà Nội gặp Tuấn. Theo yêu cầu của Tuấn chuẩn bị quà quan hệ, ông Cảnh đã mua 3 chiếc điện thoại Vertu giá 7.200 USD/chiếc (tương đương 118,6 triệu đồng/chiếc).
Cầm số tiền trên của ông Cảnh, cuối tháng 11/2008, Tuấn chuyển tổng số tiền hơn 225,8 triệu đồng cùng 2 chiếc điện thoại Vertu cho Hưng. Ngày 27/11/2008, Tuấn đưa tiếp 5.400 USD (89 triệu đồng) cho vợ Hưng. Về phần mình, Tuấn đem bán chiếc điện thoại Vertu còn lại được 5.200 USD và sử dụng tiền chi tiêu cá nhân hết.
Hơn một tháng sau, ông Cảnh vào TP. HCM gặp Hưng. Lúc này, đối tượng tiếp tục vòi vĩnh ông Cảnh đưa thêm 50.000 USD (tương đương 830 triệu đồng) cùng lời hứa “sau một ngày sẽ có công văn hỏa tốc đến Tập đoàn Vinashin Việt Nam giải ngân trả nợ công ty ông Cảnh 25 tỷ đồng”. Sẵn sốt ruột đối với khoản nợ, ông Cảnh tin tưởng đưa tiền cho Hưng.
Chờ mãi không được trả nợ, ông Cảnh mới biết đã dính bẫy của siêu lừa. Đến tháng 5/2009, ông Cảnh tìm các đối tượng lừa đảo. Tuấn viết giấy xác nhận với nội dung, cuối năm 2008 đã nhận 70.000 USD từ ông Cảnh. Hiện, bị can Tuấn tự nguyện khắc phục hậu quả, trả lại 1,1 tỷ đồng cho nạn nhân.
Trong quá trình điều tra, bị can Tuấn khai nhận lần đầu đã đưa cho Hưng 552 triệu đồng (bao gồm 225 triệu đồng, 5.400 USD và 2 chiếc điện thoại Vertu). Tuấn còn khai nhận đã đưa cho Hưng thêm 5.000 USD – 10.000 USD. Do chỉ có lời khai bị can, không có nhân chứng hay giấy tờ tài liệu chứng minh nên cơ quan điều tra không có căn cứ xác định.
Bị truy tố về hành vi chiếm đoạt hơn 1,3 tỷ đồng, bị can Nguyễn Văn Hưng chối bay chối biến về số tiền trên, chỉ thừa nhận cầm 50.000 USD của ông Cảnh.
Cơ quan công tố xác định, bị can Lê Đức Tuấn và Nguyễn Văn Hưng đồng phạm chiếm đoạt của ông Cảnh 1,1 tỷ đồng. Riêng bị can Hưng còn chiếm đoạt thêm 50.000 USD.
Vụ việc xảy ra từ năm 2008 nhưng đến mãi năm 2013, nạn nhân mới làm đơn tố cáo hành vi của các đối tượng với cơ quan điều tra.
Giữa tháng 1/2016, TAND TP. Hà Nội đã đưa vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản ra xét xử. Sau nửa ngày xét xử, phiên tòa phải tạm dừng. Lý do HĐXX trả hồ sơ là cần xác minh lời trình bày của một số người khác để làm rõ lời khai của các bị cáo tại tòa.