Doanh nghiệp Việt Nam chưa tận dụng được lợi thế từ CPTPP

0:00 / 0:00
0:00
CPTPP là hiệp định đầu tiên sau WTO đòi hỏi Việt Nam phải triển khai các hoạt động xây dựng pháp luật thực thi cam kết ở phạm vi rộng nhất.
Việt Nam cần rút ra những bài học kinh nghiệm trực tiếp cho giai đoạn tiếp theo của quá trình thực thi các cam kết có lộ trình dài hơn, có nội dung thử thách hơn của CPTPP

Việt Nam cần rút ra những bài học kinh nghiệm trực tiếp cho giai đoạn tiếp theo của quá trình thực thi các cam kết có lộ trình dài hơn, có nội dung thử thách hơn của CPTPP

Doanh nghiệp chưa tận dụng được lợi thế

Tính đến tháng 8/2021, Việt Nam đã chính thức tham gia 15 FTA khác nhau, bao gồm cả hai FTA thế hệ mới – CPTPP và EVFTA. Tuy nhiên, khả năng tận dụng các FTA này của Việt Nam còn hạn chế.

Trong đó, Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ Xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) đã có hiệu lực với Việt Nam được gần 3 năm, nhưng có đến 2 năm các thành viên CPTPP nói chung và Việt Nam nói riêng bị ảnh hưởng nặng nề bởi đại dịch Covid-19.

Do đó, những chuyển biến về thương mại và đầu tư dưới tác động của CPTPP chưa được phát huy một cách thật rõ ràng.

Theo đánh giá của Trung tâm WTO (VCCI), Việt Nam mới tận dụng được bình quân khoảng 37% ưu đãi do các FTA mang lại, do nhiều nguyên nhân khác nhau. Chẳng hạn, trong năm 2019, chỉ 1,67% hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam sang các nước CPTPP tận dụng được các ưu đãi thuế quan của hiệp định.

Mức này không chỉ thấp so với mức tận dụng trung bình 37,20% đối với tất cả các FTA của Việt Nam trong năm 2019, mà còn thấp so với mức tận dụng trong năm đầu tiên đối với nhiều FTA khác. Nhiều doanh nghiệp Việt Nam vẫn thiếu thông tin liên quan tới CPTPP và EVFTA nên chưa tận dụng được hai hiệp định này.

Chính vì vậy, đòi hỏi Việt Nam phải nâng cao năng lực của mình, đặc biệt phải tập trung cải cách thể chế. Mặc dù sự chuyển biến về cải cách thể thế của Việt Nam có vẻ trầm lắng, nhưng VCCI cho rằng Việt Nam đã chứng kiến một sự thay đổi khác ở góc độ xây dựng pháp luật thực thi các cam kết trong CPTPP.

CPTPP là Hiệp định Thương mại Tự do (FTA) thế hệ mới, tiêu chuẩn cao đầu đầu tiên mà Việt Nam từng tham gia. Việc thực thi Hiệp định này có tác động trực tiếp tới nhiều chế định pháp luật nội địa của Việt Nam.

Do đó, khác với nhiều FTA trước đây, việc sửa đổi, bổ sung, xây dựng mới các quy định pháp luật nội địa nhằm bảo đảm tương thích với cam kết là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu trong quá trình thực thi Hiệp định này.

Ông Hoàng Quang Phòng, Phó Chủ tịch VCCI cho rằng, trên thực tế, có thể nói CPTPP là hiệp định đầu tiên sau WTO đòi hỏi Việt Nam phải triển khai các hoạt động xây dựng pháp luật thực thi cam kết ở phạm vi rộng như vậy.

Một phần đáng kể trong số này đã được triển khai trong giai đoạn 2019-2020, với các văn bản được ban hành mới, sửa đổi/bổ sung trong nhiều lĩnh vực, ở các cấp độ pháp lý khác nhau.

Cam kết CPTPP được “nội luật hóa”

Bà Nguyễn Thị Thu Trang, Giám đốc Trung tâm WTO và Hội nhập, VCCI cho biết, nhằm thực thi các cam kết trong CPTPP thì việc sửa đổi, bổ sung, xây dựng mới các quy định pháp luật nội địa là một trong những việc trọng tâm trong quá trình triển khai Hiệp định này của Việt Nam.

Tổng hợp của VCCI cho thấy, theo các kế hoạch xây dựng pháp luật thực thi CPTPP của Quốc hội, Chính phủ và các Bộ ngành thì có tổng cộng 7 Luật, 6 Nghị định và 6 Thông tư cần được sửa đổi hoặc xây dựng mới.

Các hoạt động xây dựng pháp luật này dự kiến chia làm 2 đợt: Đợt đầu thực hiện với các cam kết CPTPP có hiệu lực ngay và đợt sau thực hiện với các cam kết CPTPP có lộ trình muộn hơn.

Rà soát của VCCI được thực hiện với tổng cộng 11 văn bản quy phạm pháp luật được ban hành để thực thi các cam kết CPTPP có hiệu lực ngay và 4 văn bản được soạn thảo để chuẩn bị thực thi các cam kết CPTPP có hiệu lực theo lộ trình trong giai đoạn 2019 - 2021.

Theo bà Trang phần lớn các quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật này đều tương thích với cam kết CPTPP được “nội luật hóa”. Thậm chí một số quy định có nội dung vượt chuẩn cam kết, thực hiện ở mức cao hơn so với yêu cầu hoặc với lộ trình sớm hơn.

Một số trường hợp quy định “nội luật hóa” có điều chỉnh nhất định so với yêu cầu của cam kết gốc (về phạm vi, điều kiện…) nhằm bảo đảm sự hài hòa, hợp lý và nhất quán trong bối cảnh pháp luật nội địa Việt Nam.

Tuy nhiên, một trong những yếu tố có ảnh hưởng đáng kể đến hiệu quả, chất lượng của các quy định pháp luật nằm ở chỗ trong quá rình soạn thảo, các cơ quan soạn thảo có lấy ý kiến doanh nghiệp hay không. Có tiếp thu một cách hợp lý và với 1 thái độ cầu thị đối với hoạt động ý kiến của doanh nghiệp hay không?

Theo bà Trang, việc tham vấn doanh nghiệp trong quá trình soạn thảo, rà soát cho thấy tất cả các văn bản quy phạm pháp luật, kể cả trường hợp được soạn thảo theo quy trình rút gọn hay văn bản cấp thông tư, đều công khai dự thảo trên website của cơ quan soạn thảo để lấy ý kiến tham vấn. Song việc công khai trên các website để doanh nghiệp tiếp cận nhưng chưa chắc họ đã quan tâm.

Bà Trang cho hay, VCCI có rà soát 11 văn bản thì có ít nhất 10 văn bản đều công khai ở trên các website của các bộ phụ trách soạn thảo, nhưng việc chỉ đưa lên website thì doanh nghiệp chưa hẳn đã quan tâm.

“Thực chất, doanh nghiệp họ có rất nhiều việc phải làm, chúng tôi còn không theo dõi được hết. Vì vậy, tôi mong các văn bản do các cơ quan thực hiện việc ban hành, có thể gửi dự thảo đến lấy ý kiến cộng đồng doanh nghiệp thông qua VCCI”, bà Trang nói.

Theo bà Trang, các dự thảo cũng cần phải đi kèm với bản giải trình để doanh nghiệp có thể hiểu được tại sao cơ quan soạn thảo lựa chọn cách quy định như vậy. Bởi nhiều khi đọc mỗi dự thảo thì lại không hiểu cặn kẽ, gây khó khăn nhất định cho việc tìm hiểu và góp ý của các chủ thể liên quan.

Ông Ngô Chung Khanh, Phó Vụ trưởng Vụ Chính sách thương mại đa biên (Bộ Công thương) cho hay, qua tổng hợp báo cáo của các tỉnh thành sau 1 năm thực thi CPTPP, thì có hơn 460 văn bản pháp luật ở cấp địa phương đã được sửa đổi, ban hành. Dù các văn bản này có nhiều văn bản không nói đích danh về CPTPP nhưng lại có những nội dung đề cập đến CPTPP.

“Việt Nam đã thực sự quyết tâm đảm bảo hệ thống pháp luật sau khi gia nhập CPTPP là tương thích với hiệp định này”, ông nói.

Theo ông Khanh, ở cấp độ luật và nghị định, theo Nghị quyết 72 thì phải sửa đổi 7 luật, hiện tại đã thực hiện xong 5 luật, còn 2 luật là sửa đổi Bộ Luật hình sự và sửa đổi Luật Tố tụng hình sự thì vẫn đang trong quá trình thực hiện. Còn 6 nghị định phải sửa đổi, ban hành thì đến nay thì đã ban hành đủ.

“Chúng ta đã chấp nhận một tiêu chuẩn cao hơn, không chỉ dừng lại ở WTO và đã quan tâm đến CPTPP. Việc quan tâm tới CPTPP tức là quan tâm ở mức tiêu chuẩn cao hơn hẳn, điều này rất đáng để kì vọng trong việc ban hành các văn bản pháp luật trong thời gian tới”, ông Khanh kỳ vọng.

Tin bài liên quan