Cục Quản lý cạnh tranh (Bộ Công thương) và Trung tâm WTO (VCCI) vừa Tổng kết việc thực thi pháp luật phòng vệ thương mại trong suốt giai đoạn vừa qua mà vắng bóng sự tham gia của các doanh nghiệp.
Sau hơn 10 năm ban hành pháp luật về các biện pháp phòng vệ thương mại, Việt Nam đã tiến hành điều tra và áp dụng 4 vụ việc tự vệ và 2 vụ việc chống bán phá giá. So với 311 vụ tự vệ, 4757 vụ chống bán phá giá, 380 vụ chống trợ cấp trên toàn thế giới thì Việt Nam đã sử dụng rất ít công cụ phòng vệ thương mại này.
Trong khoảng 5 năm trở lại đây, phòng vệ thương mại mới được các cơ quan chức năng và doanh nghiệp bắt tay vào để ý vì các hàng rào thuế quan ngày càng được dỡ bỏ và xu hướng được đưa về đích từ 0-5%. Hiện có những hiệp định FTAt heo đàm phán hơn 99% dòng thuế được đưa về mức này.
Trong bối cảnh hàng rào thuế quan được dỡ bỏ nhanh và mạnh thì nhiều loại hàng rào phi thuế quan lại được các quốc gia dựng lên để bảo vệ cho quyền lợi của mình và bảo hộ nền sản xuất trong nước. Hiện có 3 công cụ phòng vệ thương mại (chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ) theo quy định của WTO. Việt Nam cần tận dụng tối đa 3 công cụ này.
PGS.TS Phạm Tất Thắng, Nghiên cứu viên cao cấp (Bộ Công thương) cho rằng, ngoài việc Việt Nam phải chuẩn bị sẵn sàng về pháp lý và nguồn lực cần thiết để ứng phó kịp thời thì cần sự chủ động của chính doanh nghiệp.
Trên thực tế, sự hợp tác giữa doanh nghiệp bản địa và doanh nghiệp nước ngoài trong tiến trình hội nhập quốc tế ngày càng khăng khít, thậm chí nhiều trường hợp đã thực sự hòa quện với nhau. Một khi Hiệp định TPP có hiệu lực từ năm 2018, giá trị vốn đầu tư của nước ngoài dự kiến tăng 25-35%/năm và quan hệ doanh nghiệp nội – ngoại càng khăng khít, rất khó phân biệt.
“Trong trường hợp này, nhà nhập khẩu rất dễ nấp dưới hình thức nhập nguyên liệu, thậm chí chuyển toàn bộ quá trình sản xuất vào Việt Nam để gia công và bán hàng hóa đó trên thị trường nhằm trốn tránh các biện pháp phòng vệ thương mại của Việt Nam. Đây là tình huống cần phải đặc biệt lưu ý để tránh lúng túng khi áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại. Đặc biệt các nhà xuất khẩu, đồng thời là nhập khẩu có thể vận dụng trường hợp ngoại trừ bởi họ dễ dàng chứng minh được sự liên kết của mình với các nhà sản xuất trong nước”, ông Thắng cảnh báo.
Ngoài ra, một trong những mục tiêu quan trọng của cộng đồng kinh tế AEC là xây dựng một thị trường đơn nhất và một không gian sản xuất chung. Đây chính là điều kiện thuận lợi để các nhà sản xuất, phân phối lớn của Thái Lan, Singapore, Malaysia, Indonesia thể hiện sức mạnh của mình trong việc chiếm lĩnh thị trường hơn 640 triệu dân này.
Khi đó nếu có sự xuất hiện hành động chống bán phá giá thì rất khó khăn trong việc xác định thiệt hại của ngành sản xuất trong nước để đi tới áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại.
Đó là chưa kể, hơn 80% doanh nghiệp Việt Nam là quy mô nhỏ và vừa, siêu nhỏ, nếu trong nghị định quy định cứng, đại diện cho ngành sản xuất trong nước phải được sự ủng hộ bởi các nhà sản xuất chiếm tối thiếu 50% tổng sản lượng của sản phẩm tương tự và điều tra sẽ không được bắt đấu nếu các nhà sản xuất bày tỏ ý tán thành điều tra ít hơn 25% tổng sản lượng của sản phẩm tương tự thì rất khó triển khai trên thực tế.
Việc quy định cứng như thế sẽ tự trói buộc mình bởi tập hơph đủ số lượng như vậy trong điều kiện tính liên kết của trong nghiệp trong nước yếu. Trong trường hợp này cần mở rộng vai trò quyết định của cơ quan điều tra, tiếng nói của hiệp hội, ngành hàng với tư cách là nguyên đơn đề nghị tiến hành điều tra.
Liên quan tới vấn đề hoàn thiện cơ sở pháp lý cho vấn đề này, bà Phạm Châu Giang, Phòng Điều tra các vụ kiện phòng vệ thương mại Cục Quản lý cạnh tranh (Bộ Công thương) cho rằng, việc sửa đổi, hoàn thiện pháp luật thương mại cần được đặt trong mối tương quan với các Hiệp định của WTO, trong đó Việt Nam cần khai thác triệt để quyền của các nước thành viên mà WTO cho phép, như quyền dành cho các nước đang và kém phát triển…
Theo bà Trang Nguyễn thị Thu Trang, Giám đốc Trung tâm WTO và hội nhập VCCI, các doanh nghiệp vẫn ít quan tâm đến các công cụ này trong bối cảnh hiện nay là điều rất đáng lo ngại. Song cũng có những lý do khiến họ không thể. Trong quá trình sử dụng công cụ này họ vướng rào cản về cơ chế khai thác thông tin nên nhà nước cần có sự điều chỉnh về mở rộng phạm vi thông tin xuất nhập khẩu mà doanh nghiệp được phép tiếp cận. Có dịch vụ cung cấp thông tin chuyên sâu cho các doanh nghiệp.