Chính sách thuế có nhiều bất cập
Theo chương trình sửa đổi các luật thuế trong năm 2024, dự án Luật Thuế giá trị gia tăng sửa đổi sẽ được trình Quốc hội cho ý kiến tại kỳ họp thứ 7 đang diễn ra và dự kiến thông qua tại kỳ họp thứ 8 (tháng 10/2024).
Một nội dung được quan tâm đặc biệt trong dự thảo Luật là chuyển mặt hàng phân bón và các loại máy móc, thiết bị chuyên dùng phục vụ cho sản xuất nông nghiệp sang áp dụng 5% thuế giá trị gia tăng, thay vì thuộc nhóm đối tượng “không chịu thuế” như hiện nay.
Ngày 14/6/2024, tại Toạ đàm “Sửa thuế để thúc đẩy hoạt động doanh nghiệp” do Báo Đầu tư tổ chức, các chuyên gia đầu ngành thuế và đại diện doanh nghiệp ngành phân bón cho rằng, qua thực tiễn gần 10 năm thực hiện việc không áp thuế giá trị gia tăng với phân bón, hiện tại đã có đủ trải nghiệm, số liệu, căn cứ để nhận thấy đây là quy định bất cập với cả Nhà nước, doanh nghiệp và người nông dân.
Nhìn lại thời điểm khởi nguồn của quy định thuế giá trị gia tăng cho tới nay, ông Nguyễn Văn Phụng, nguyên Vụ trưởng Vụ Quản lý thuế doanh nghiệp lớn, Tổng cục Thuế cho biết, năm 2008, thời điểm Quốc hội thông qua Luật Thuế giá trị gia tăng, phân bón, thuốc trừ sâu, nguyên vật liệu đầu vào của nông nghiệp nhưng là đầu ra của công nghiệp chịu thuế suất 5%, 10%. Đặc biệt, phân bón và máy móc, thiết bị chuyên dùng cho nông nghiệp áp dụng thuế 5%.
Đó là thời điểm Việt Nam vừa trải qua khủng hoảng châu Á - Thái Bình Dương và nền kinh tế trong nước gặp nhiều khó khăn. Bởi vậy, Việt Nam cân nhắc đưa ra các chính sách để khuyến khích nông nghiệp, tháo gỡ khó khăn cho nông nghiệp. Các nhà khoa học kiến nghị, vật tư nông nghiệp đầu vào trong đó có phân bón nên để thuế thấp hơn nhằm tạo điều kiện cho bà con nông dân mua giá rẻ và thúc đẩy sản xuất của doanh nghiệp.
“Cũng từ quan điểm này, nhiều hiệp hội ngành hàng kiến nghị đưa phân bón về thuế suất 0%. Lúc đó, với tư cách cán bộ làm chính sách của Bộ Tài chính, tôi đã khuyến cáo, không thể đưa về 0%, vì theo thông lệ và cam kết quốc tế, chúng ta chỉ áp dụng cho hàng hoá và dịch vụ xuất khẩu, theo đúng nguyên tắc của thuế giá trị gia tăng. Tại thời điểm đó, Quốc hội có bàn rằng, nếu như đang ở mức 5% mà khó khăn quá thì đưa về mức không chịu thuế. Rất tiếc, tại thời điểm đó, các hiệp hội ngành hàng, các cơ quan nghiên cứu, các viện, các trường không đủ thông tin, dữ liệu để chứng minh trước Quốc hội là thuế suất 5% có lợi hay không chịu thuế có lợi. Với thời gian ngắn ngủi và số liệu thông tin không cụ thể, nên phân bón đã được đưa từ việc chịu thuế 5% về không chịu thuế. Tuy nhiên, điều này đã để lại nhiều hệ luỵ trong 10 năm qua”, ông Phụng nói.
Trước những bất cập vì quy định không áp thuế giá trị gia tăng với phân bón, ông Nguyễn Trí Ngọc, Phó chủ tịch Hiệp hội Phân bón Việt Nam nhấn mạnh: “10 năm không được áp thuế giá trị gia tăng, ngành nông nghiệp vừa thiệt đơn vừa thiệt kép và người nông dân là đối tượng gánh chịu”.
Cụ thể, mặt hàng phân bón thuộc đối tượng “không chịu thuế giá trị gia tăng” theo Luật sửa đổi các Luật về thuế 2014 số 71/2014/QH13 (Luật số 71). Vì vậy, các doanh nghiệp phân bón không được kê khai, khấu trừ thuế giá trị gia tăng đầu vào là hàng hoá, dịch vụ, thiết bị máy móc, đầu tư cho sản xuất phân bón. Chính vì không được khấu trừ nên các hoạt động sản xuất phân bón phải tính vào chi phí sản phẩm, tức là tính vào giá thành sản phẩm, tác động đẩy giá phân bón lên.
“Phân bón là vật tư đầu vào của sản xuất nông nghiệp, chiếm 40 - 60% giá thành của các sản phẩm nông nghiệp, đồng thời là sản phẩm thiết yếu đầu vào không thể thiếu. Do đó, người nông dân phải chấp nhận mua phân bón với giá thành cao hơn”, ông Ngọc cho biết.
Một tác động nữa là giá thành phân bón sản xuất trong nước tăng thì bất lợi trong cạnh tranh với sản phẩm phân bón nhập khẩu. Mỗi năm, ngành nông nghiệp tiêu thụ 11 - 12 triệu tấn phân bón, trong đó các sản phẩm sản xuất trong nước khoảng 8 triệu tấn, còn lại phải nhập khẩu.
“Khi nhập khẩu phân bón, doanh nghiệp sản xuất trong nước đối diện tình trạng cạnh tranh bất bình đẳng, vì bên nước khác chịu thuế giá trị gia tăng nên được khấu trừ và giá nhập vào thấp hơn so với giá sản xuất trong nước. Vậy nên, quy định không áp thuế giá trị gia tăng đã gây thiệt đơn thiệt kép cho cả doanh nghiệp và người nông dân”, ông Ngọc cho biết thêm.
Từ góc nhìn doanh nghiệp, ông Nguyễn Hoàng Trung, Phó tổng giám đốc Công ty cổ phần DAP - Vinachem chia sẻ, DAP-Vinachem là đơn vị chuyên sản xuất phân bón DAP, một trong 2 đơn vị sản xuất DAP tại Việt Nam. Do không chịu thuế giá trị gia tăng, toàn bộ chi phí đầu vào phải tính vào giá thành sản xuất, hàng năm khoảng 7 - 8% chi phí sản xuất tăng thêm vì quy định này, ước tính mỗi năm mất khoảng 100 tỷ đồng, 10 năm nay luỹ kế lên tới con số hàng nghìn tỷ đồng.
Giá thành sản xuất tăng, mà giá bán trên thị trường không điều chỉnh được, vì có sự cạnh tranh bất bình đẳng giữa hàng sản xuất trong nước và nhập khẩu. Phân bón nhập khẩu không phải chịu thuế. Người nhập khẩu phân bón không phải chịu thuế giá trị gia tăng, có điều kiện để giảm giá bán, trong khi hàng sản xuất nội địa bị tăng giá thành, nên ngành sản xuất phân bón trong nước thời gian qua không làm chủ được thị trường, không chi phối được thị trường, phải theo “luật chơi” của phân bón nhập khẩu.
“Phân bón nhập khẩu hình thành mặt bằng chung cho giá trên thị trường, chúng tôi bắt buộc phải chấp nhận theo. Giá thành tăng lên nhưng giá bán không thể điều chỉnh theo. Đó là khó khăn lớn nhất cho Công ty, cũng là nguyên nhân khiến sản xuất - kinh doanh sụt giảm”, ông Trung nói.
Do hiệu quả sản xuất như vậy và tác động của Luật số 71 dẫn tới tất cả chi phí đầu tư nâng cấp nhà máy, nâng cao chất lượng sản phẩm không được hoàn thuế. Tất cả các khoản chi phí đầu vào của chi phí đầu tư cộng vào tổng mức đầu tư, dẫn tới hạn chế tính hiệu quả của dự án. Trong bối cảnh này, cả doanh nghiệp và cơ quan quản lý đều rất khó khăn trong việc quyết định lựa chọn phương án đầu tư.
Trong 10 năm qua, Việt Nam không có nhiều doanh nghiệp phân bón có quy mô đầu tư lớn. Điều này hạn chế sự phát triển, không thúc đẩy sản xuất, làm cho doanh nghiệp không có động lực để tăng đầu tư, tái đầu tư, nâng cao quy mô sản xuất và chất lượng sản phẩm, dẫn tới bà con nông dân chịu thiệt khi không được sử dụng sản phẩm tốt hơn.
Đã tới lúc thay đổi
Do không chịu thuế giá trị gia tăng, toàn bộ chi phí đầu vào của sản phẩm phân bón phải tính vào giá thành sản xuất.
Trong nhiều năm qua, Hiệp hội Doanh nghiệp phân bón, các doanh nghiệp trong ngành cùng nhiều chuyên gia liên tục kiến nghị thay đổi chính sách thuế giá trị gia tăng với phân bón và các loại máy móc, thiết bị chuyên dùng phục vụ cho sản xuất nông nghiệp sang áp dụng 5% thuế giá trị gia tăng, thay vì thuộc nhóm đối tượng “không chịu thuế” như hiện nay.
Chia sẻ kinh nghiệm từ thị trường quốc tế, ông Nguyễn Văn Phụng cho biết, Trung Quốc đang áp dụng hai thuế suất, thuế suất tối thiểu và thuế suất tối đa, trong đó phân bón chịu thuế suất 11%. Nga áp dụng thuế suất thuế giá trị gia tăng với phân bón ở mức 20%. Hiện 60% lượng phân bón nhập khẩu của Việt Nam là từ 2 quốc gia Nga và Trung Quốc.
“Phân bón làm từ nguyên liệu hóa thạch như dầu mỏ, dầu thô, khí thiên nhiên qua quá trình chế biến phức tạp nên việc áp thuế liên quan đến cả ngành công nghiệp phía sau. Thái Lan, Malaysia, Singapore đều áp dụng thuế giá trị gia tăng cho phân bón, không có nước nào không áp thuế giá trị gia tăng với phân bón như Việt Nam”, ông Phụng nhấn mạnh.
Đồng quan điểm, ông Nguyễn Trí Ngọc cho hay, nhiều nước trên thế giới và các nước xung quanh Việt Nam như Malaysia, Indonesia, Thái Lan đều coi phân bón là mặt hàng chịu thuế giá trị gia tăng. Ví dụ, Thái Lan là 8%, Malaysia xấp xỉ mức này. Tư duy của các nước này là sản xuất nông nghiệp - đối tượng cần được ưu tiên, cần được phát triển một cách bền vững để tạo nền tảng cho xã hội.
Đáng chú ý, theo các chuyên gia, việc áp thuế giá trị gia tăng với phân bón sẽ mang lại nhiều lợi ích cho cả Nhà nước và doanh nghiệp: một là, tăng thu ngân sách, khi có thể thu thuế với sản phẩm nhập khẩu trong khi vẫn giữ mặt bằng giá bán trong nước; hai là, doanh nghiệp có cơ sở, nguồn lực để tăng cường đầu tư, nâng cao năng suất, cải thiện chất lượng, hạ giá thành; ba là, người nông dân có cơ hội yêu cầu doanh nghiệp bán giá thấp hơn, khi doanh nghiệp đã được khấu trừ chi phí đầu vào.
Trước việc dự thảo Luật Thuế giá trị gia tăng sửa đổi lần này đưa phân bón vào đối tượng chịu thuế giá trị gia tăng, ông Trung đánh giá, nếu được thông qua sẽ tạo nhiều tác động tích cực với doanh nghiệp và ngành sản xuất phân bón trong nước.
Thứ nhất là giảm được chi phí thuế đầu vào, dẫn tới giảm giá thành, tăng sức cạnh tranh trên thị trường. Ngành sản xuất phân bón trong nước hiện nay đã tương đối đầy đủ các mặt hàng phục vụ cho ngành nông nghiệp. Từ cơ hội này, ngành sản xuất phân bón trong nước sẽ có sự cạnh tranh với phân bón nhập khẩu tốt hơn và mong muốn chiếm lĩnh được thị trường, gia tăng được thị phần. Gia tăng thị phần thì doanh nghiệp sẽ điều chỉnh được giá bán, tăng hậu mãi cho người nông dân.
Quy định không áp thuế giá trị gia tăng đối với phân bón đã gây thiệt đơn thiệt kép cho cả doanh nghiệp và người nông dân.
Thứ hai là các doanh nghiệp sẽ có nguồn lực, động lực để gia tăng đầu tư, tái đầu tư, nâng cấp, sửa chữa máy móc, thiết bị, mở rộng quy mô sản xuất.
“Đây là tiền đề quan trọng đối với ngành sản xuất phân bón trong nước. Chúng ta đã qua rất nhiều năm không đổi mới được công nghệ, do vướng các thủ tục về luật thuế, dẫn tới hiệu quả kinh tế không có nên không đổi mới được. Cơ hội này sẽ tạo thêm động lực để đổi mới công nghệ của ngành sản xuất trong nước. Làm sao để chúng ta vừa tăng được quy mô, vừa tăng được chất lượng sản phẩm. Khi tăng được quy mô thì giá thành sản xuất sẽ giảm, giá bán cho người nông dân giảm và bình ổn được giá trên thị trường, giúp người nông dân yên tâm trong sản xuất. Khi đó, kỳ vọng sẽ không còn tình trạng đầu vụ thì giá phân bón ở mức vừa phải, đến lúc cần phân bón thì giá tăng đột biến”, ông Ngọc nói.
“Với ngành DAP, chúng tôi tinh chế sản phẩm từ quặng apatit. Công ty đang hướng đến kinh tế tuần hoàn, bắt đầu từ nguồn quặng apatit trong nước khai thác về, chúng tôi sản xuất ra phân bón DAP và nguồn phát thải thì chúng tôi sử dụng để làm vật liệu san lấp trong xây dựng, tức sử dụng được toàn bộ nguồn khoáng sản, không bị mất đi cái gì. Việc thay đổi quy định về thuế giá trị gia tăng như dự thảo Luật sẽ tạo cơ hội, tiền đề để chúng tôi thực hiện được kinh tế tuần hoàn”, ông Trung cho biết.
Nếu như chính sách thuế giá trị gia tăng tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp thì doanh nghiệp sẽ có động lực để thực hiện việc đầu tư, sửa chữa, nâng cấp thiết bị nhà máy, mở rộng quy mô, đổi mới công nghệ.
Theo số liệu của ông Phụng, trong 9 năm qua, số thuế đầu vào không được khấu trừ của Nhà máy Phân bón Cà Mau khoảng 2.446 tỷ đồng. Các nhà máy Phú Mỹ, Ninh Bình, Hóa chất Hải Phòng… đều như vậy. Theo đó, nếu có sự thay đổi chính sách, nguồn lực này có thể được sử dụng để nâng cấp công nghệ, nâng cao chất lượng phân bón, thúc đẩy ngành sản xuất trong nước, dẫn đến phục vụ tốt hơn cho bà con nông dân, cũng như phục vụ phát triển bền vững nền kinh tế Việt Nam.
“Trong thời buổi cạnh tranh hội nhập như hiện nay, nông sản Việt Nam muốn giữ vững lợi thế cạnh tranh của mình không có cách nào khác là phải đổi mới thực sự, mà trước hết cơ hội để đổi mới tới từ nguồn đầu vào đang chiếm 40 - 60% giá thành sản phẩm. Giá thành đầu vào giảm xuống, chất lượng được nâng lên sẽ đáp ứng hơn nữa phát triển nền kinh tế nông nghiệp xanh, sạch, an toàn, bền vững. Chúng tôi nghĩ, đây là cơ hội cho ngành phân bón, cho bà con nông dân và cả nền kinh tế nông nghiệp của chúng ta”, ông Ngọc nhấn mạnh.