Đây là những tồn tại dai dẳng trong công tác tái cơ cấu khu vực doanh nghiệp nhà nước được đưa ra tại Diễn đàn “Thúc đẩy quá trình đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước” do Tạp chí Kinh tế và Dự báo, Bộ Kế hoạch và Đầu tư tổ chức vừa diễn ra sáng 6/11 tại Hà Nội.
Theo Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Văn Hiếu, qua hơn 20 năm cải cách không ngừng, số lượng doanh nghiệp nhà nước từ hơn 12.000 doanh nghiệp vào đầu những năm 90, đã giảm đáng kể xuống còn 5.600 doanh nghiệp vào năm 2001 và đến nay chỉ còn khoảng hơn 500 doanh nghiệp 100% vốn nhà nước ở 11 ngành, lĩnh vực của nền kinh tế.
Dự kiến, đến năm 2020, cả nước chỉ còn khoảng hơn 100 doanh nghiệp nhà nước.
Từ năm 2016 đến hết tháng 10/2018, cả nước đã phê duyệt phương án cổ phần hóa 136 doanh nghiệp nhà nước. Trong đó, đã tiến hành cổ phần hóa nhiều doanh nghiệp quy mô rất lớn như: Tập đoàn Cao su Việt Nam, các Tổng công ty: Phát điện 3, Dầu Việt Nam, Điện lực Dầu khí, Lọc hóa dầu Bình Sơn... Đáng kể, lượng cổ phiếu IPO đều được bán hết, nhận được sự quan tâm của các nhà đầu tư trong và ngoài nước.
Toàn cảnh diễn đàn
Về công tác thoái vốn nhà nước tại doanh nghiệp, trong giai đoạn này đã có các thương vụ lớn như thoái vốn tại Tổng công ty Bia - Rượu - Nước giải khát Sài Gòn, Công ty cổ phần Sữa Vinamilk..., thu về gần 160.000 tỷ đồng (gấp hơn 9 lần giá trị sổ sách).
Tuy nhiên, tiến trình tái cơ cấu DNNN nhất là cổ phần hóa và thoái vốn đang triển khai rất chậm, quá trình cổ phần hóa DNNN còn nhiều hạn chế, tiêu cực và gặp nhiều khó khăn vướng mắc, đặc biệt thể chế chậm được giải quyết, nhất là thể chế định giá đất đai tài sản.
Số liệu được ông Đặng Quyết Tiến, Cục trưởng Tài chính doanh nghiệp (Bộ Tài chính) đưa ra cho thấy, giai đoạn 2016 đến tháng 9/2018, cả nước thoái được 16.463 tỷ đồng, thu về 154.306 tỷ đồng. Riêng 9 tháng đầu năm 2018, doanh nghiệp thoái được hơn 3.770 tỷ đồng, thu về 9.140 tỷ đồng.
Hoạt động của DNNN còn nhiều hạn chế như hiệu quả sản xuất kinh doanh thấp, chưa tương xứng với nguồn lực nhà nước; cơ chế quản trị DNNN chậm đổi mới, chưa phù hợp với chuẩn mực quốc tế; tính công khai, minh bạch hạn chế; trách nhiệm người quản lý chưa rõ ràng.
Bên cạnh đó, chính sách tiền lương, thưởng của DNNN chưa gắn với hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp theo cơ chế thị trường; cơ chế xử lý trách nhiệm của người đứng đầu khi xảy ra sai phạm cũng như việc xử lý hành vi vi phạm về giám sát, đánh giá hiệu quả hoạt động của DNNN chưa đầy đủ, nghiêm túc.
“Chúng ta chưa thể hài lòng với những kết quả đã đạt được. Doanh nghiệp nhà nước đang được giao quản lý, sử dụng khối lượng tài sản lớn nhưng hiệu quả sản xuất kinh doanh và đóng góp vào ngân sách nhà nước thấp, chưa xứng với nguồn lực được đầu tư.
Một số dự án thua lỗ, thất thoát vốn lớn. Kết quả sắp xếp, cổ phần hoá, thoái vốn doanh nghiệp nhà nước chậm, chưa đạt số lượng đề ra”, thứ trưởng Hiếu nhận định.
Nguyên nhân chủ yếu là do tâm lý của một bộ phận lãnh đạo doanh nghiệp chậm chuyển biến, nặng về sự e ngại, né tránh trách nhiệm hoặc lo mất quyền lợi nếu chuyển đổi mô hình doanh nghiệp; các vướng mắc liên quan đến đất đai, định giá tài sản, sự thiếu đồng bộ về thể chế, quy định pháp luật, vướng mắc trong xử lý sắp xếp lao động, việc tuyên truyền chưa đạt hiệu quả.
Năng lực quản trị doanh nghiệp của một số lãnh đạo còn yếu kém, chậm cập nhật, nhất là trong đầu tư ứng dụng công nghệ hiện đại, thiếu tinh thần cầu thị và chưa đáp ứng được sự thay đổi cũng như thách thức trong cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 và hội nhập kinh tế quốc tế...
Giai đoạn 2020-2025, DNNN phải đặt mục tiêu hiệu suất sinh lời của vốn chủ sỡ hưu ít nhất 15%/năm; hiệu suất sinh lời tài sản từ 7-9%/năm với sản xuất kinh doanh.
- Ông Phạm Đức Trung, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương
“Thời gian tới, việc cổ phần hoá, thoái vốn được xem là nhiệm vụ trọng tâm để tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước; trong đó, cổ phần hoá các tập đoàn lớn như: than khoáng sản, hoá chất, bưu chính viễn thông… Trong bối cảnh cách mạng 4.0 và sự ra đời của Uỷ ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp, nhiệm vụ đổi mới, nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước rất nặng nề”, Thứ trưởng Nguyễn Văn Hiếu nhấn mạnh.
Theo ông Phạm Đức Trung, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương, để nâng cao hiệu quả hoạt động, DNNN cần tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý, trong đó, áp dụng thông lệ quản trị doanh nghiệp quốc tế với DNNN. Cần gia tăng trách nhiệm nâng cao hiệu quả quản lý tài sản nhà nước đầu tư trong kinh doanh đối với các cơ quan đại diện chủ sở hữu và doanh nghiệp, trước hết là Ủy ban Quản lý vốn Nhà nước tại doanh nghiệp.
“Giai đoạn 2020-2025, DNNN phải đặt mục tiêu hiệu suất sinh lời của vốn chủ sỡ hưu ít nhất 15%/năm; hiệu suất sinh lời tài sản từ 7-9%/năm với sản xuất kinh doanh. Đồng thời, hoàn thành áp dụng thông lệ quản trị doanh nghiệp quốc tế với DNNN và được tổ chức uy tín xếp hạng, thừa nhận”, ông Trung đề xuất.
Để đảm bảo tăng chất và lượng công tác cổ phần hóa, ông Đặng Quyết Tiến cho rằng các đơn vị cần đẩy mạnh tốc độ sắp xếp, nhất là cổ phần hóa doanh nghiệp, đồng thời tuân thủ các quy định pháp luật và đáp ứng yêu cầu, thông lệ quốc tế trong bước chuẩn bị cổ phần hóa; có phương án khả thi, nhất là bảo đảm sự chính xác, minh bạch về thông tin, làm rõ vấn đề công nợ để hướng tới những nhà đầu tư giầu tiềm năng. Việc tuyên truyền, giới thiệu là rất quan trọng để phổ biến đến cộng đồng.
Ông Tiến đưa ra 5 nhóm giải pháp trong đó nhấn mạnh cần tuân thủ, công khai, minh bạch thông tin và nêu cao trách nhiệm của người đứng đầu, tăng cường giám sát minh bạch. Bên cạnh đó, thang bảng lương của người lao động trong DNNN, trách nhiệm của người đứng đầu cần được rõ ràng. Để đảm bảo vấn đề này, giám sát minh bạch phải tăng cường.