Ông Nguyễn Văn Thân, Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa. Ảnh: Hồ Hạ
Với cương vị Chủ tịch Hiệp hội DNNVV, ông đánh giá thế nào về những gói hỗ trợ của Chính phủ thời gian qua?
Tôi đánh giá rất cao sự quan tâm, hỗ trợ kịp thời của Chính phủ với doanh nghiệp và người lao động. Dưới sự tham mưu chủ động, sáng tạo của các Bộ, ngành, đặc biệt là của Văn phòng Chính phủ và Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Chính phủ đã kịp thời ban hành nhiều quyết sách như Chỉ thị 11, Nghị quyết 42 và Quyết định 15; từ đó làm cơ sở ra đời nhiều chính sách hỗ trợ, bao gồm gói hỗ trợ an sinh xã hội 62.000 tỷ (hiện nay đã giải ngân trên 20.000 tỷ), gói hỗ trợ tài khóa 180.000 tỷ (tính đến ngày 20/4 đã tiếp nhận hơn 24.200 hồ sơ đề nghị gia hạn thuế, tiền thuê đất), gói hỗ trợ giá điện 12.000 tỷ và gói hỗ trợ viễn thông 15.000 tỷ…
Đặc biệt, đối với riêng ngành ngân hàng, toàn hệ thống đã nhất quán chủ trương “thắt lưng buộc bụng” để hạ lãi suất, cơ cấu lại nhóm nợ, gia hạn thời gian trả nợ, thậm chí hoãn phân chia lợi tức để hỗ trợ doanh nghiệp với tổng trị giá lên đến 600.000 tỷ đồng.
Cho đến nay, ngành ngân hàng đã cấp mới cho hơn 354.000 khách hàng với tổng trị giá khoảng 165.000 tỷ đồng. Tuy nhiên, nhu cầu vay vốn để chi trả tiền lương cho công nhân và phục hồi sản xuất, kinh doanh vẫn còn rất lớn.
Một số doanh nghiệp nhỏ và vừa phản ánh trên báo chí rằng chưa tiếp cận được các gói hỗ trợ, tại sao vậy, thưa ông?
Chính sách về tài khoá và các chính sách cho vay của ngân hàng rất rõ ràng. Tuy nhiên, người lao động hấp thụ các gói hỗ trợ an sinh xã hội dễ hơn, còn doanh nghiệp hấp thụ gói hỗ trợ tài khóa khó hơn bởi ngân hàng chỉ sẵn sàng cho vay nếu doanh nghiệp chứng minh được khả năng trả nợ.
Tại hội nghị, Chủ tịch UBND Thành phố Hà Nội Nguyễn Đức Chung nói sẽ có nguồn ngân sách đưa vào ngân hàng chính sách xã hội và một số ngân hàng khác để cho doanh nghiệp vay lãi suất 0%.
Vậy thì, vấn đề ở đây là DNNVV phải nâng tầm quản trị kinh doanh, năng lực, cấu trúc… Phái chuẩn bị trước tất cả để trình ra là ngân hàng chấp nhận. Đặc thù của ngân hàng là ngành kinh doanh tiền tệ chứ không phải gói hỗ trợ khác. Chẳng hạn, gói hỗ trợ là ốm thì mang tiền đến cho, còn với ngân hàng, doanh nghiệp muốn vay vốn thì phải thể hiện được “sức khỏe”.
Do đó, cần tăng cường quỹ hỗ trợ DNNVV và quỹ bảo lãnh tín dụng doanh nghiệp để chia sẻ với ngân hàng, giúp cộng đồng doanh nghiệp. Vì bảo lãnh cho doanh nghiệp thì quỹ bảo lãnh tín dụng chuyển sang ngân hàng, sau đó ngân hàng cấp cho doanh nghiệp.
Theo số liệu công bố của Tổng cục Thống kê, 4 tháng qua, số lượng doanh nghiệp giải thể và dừng hoạt động rất lớn, vậy mục tiêu đến hết năm 2020, Việt Nam đạt 1 triệu doanh nghiệp liệu có thành?
Mục tiêu đến năm 2020 có 1 triệu doanh nghiệp trong bối cảnh hiện nay là rất khó, vì bản thân các doanh nghiệp bị phá sản và bị đóng cửa do dịch Covid-19 tăng nhanh. Chúng ta hiện có khoảng 800.000 doanh nghiệp. Từ nay đến hết năm 2020, có thêm 200.000 doanh nghiệp mới, cộng thêm phải bù đắp vào lượng doanh nghiệp sẽ đóng cửa, phá sản trong thời gian này là điều rất khó. Nhưng, trong tình hình mới, khi tất cả các chỉ tiêu phải giảm thì chỉ tiêu này cũng phải giảm.
Như ông chia sẻ, nhu cầu vay vốn để chi trả tiền lương cho công nhân và phục hồi sản xuất, kinh doanh vẫn còn rất lớn. Vậy, đâu sẽ là giải pháp để đáp ứng được những nhu cầu thiết thực, sống còn đối với các DNNVV, thưa ông?
Cộng đồng DNNVV là cộng đồng lớn nhất trong tất cả các cộng đồng doanh nghiệp, chiếm 90% trên tổng số 800.000 doanh nghiệp. Cộng đồng DNNVV lại là lực lượng nhạy cảm nhất, đầu tư nhiều ngành nghề nhất nên đòi hỏi sự tập trung cao độ của Chính phủ.
Thứ nhất, Chính phủ cần tăng cường nguồn lực về con người và tài chính cho các Quỹ Hỗ trợ DNNVV và đặc biệt là các Quỹ Bảo lãnh tín dụng. Chúng tôi được biết, toàn quốc hiện nay có 28 Quỹ bảo lãnh tín dụng trực thuộc các tỉnh, thành phố với tổng nguồn vốn là hơn 1.450 tỷ đồng. Đây là số tiền quá nhỏ so với nhu cầu của cộng đồng doanh nghiệp, nhất là trong thời kỳ đại dịch Covid-19. Do vậy, việc cải tổ các Quỹ Bảo lãnh tín dụng là vô cùng cấp thiết. Chính phủ cần phải xem xét làm sao để có nhiều nguồn lực về tài chính; các thủ tục về bảo lãnh vay phải đơn giản hơn.
Thứ hai, việc giải ngân vốn đầu tư công là một nhiệm vụ rất khó, liên quan đến nhiều luật và các Bộ ngành; nhưng tỷ lệ giải ngân vốn đầu tư công đến nay đã đạt cao hơn so với cùng kỳ năm ngoái. Đây là nỗ lực và quyết tâm rất lớn của Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Đề nghị Chính phủ sớm tháo gỡ những khó khăn trên để khẩn trương giải ngân số vốn đầu tư công 700.000 tỷ đồng, nhằm vừa sớm hoàn thành mục tiêu đề ra, vừa tạo công ăn việc làm cho doanh nghiệp và người lao động. Các dự án nên có sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế, trong đó có doanh nghiệp nhỏ và vừa, để tăng tính hiệu quả và linh hoạt trong quá trình triển khai dự án.
Thứ ba, ngoài việc đẩy mạnh xuất khẩu qua các thị trường tiềm năng dựa trên lợi thế của các Hiệp định thương mại tự do mà Việt Nam là thành viên, cũng như các hiệp định mà Quốc hội sắp thông qua như Hiệp định EVFTA và EVIPA, Chính phủ cần tập trung khai thác thị trường nội địa trên tinh thần “người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”. Các dịch vụ liên quan tới du lịch, giải trí, ăn uống cần được chú trọng mở rộng vào ban đêm. Chúng ta cần nhanh chóng khai thác “kinh tế ban đêm” trên quy mô toàn quốc.
Thứ tư, Chính phủ cần cân nhắc việc giãn, giảm thuế cho doanh nghiệp nhỏ và vừa, cụ thể là: giãn thuế VAT đến hết năm 2020; miễn trừ thuế thu nhập doanh nghiệp cho các doanh nghiệp nhỏ, siêu nhỏ; và toàn bộ thuế môn bài cho các hộ kinh doanh đến hết năm 2020.
Thứ năm, đề nghị Chính phủ đưa ra các giải pháp hữu hiệu để thu hút nguồn lực “nhàn rỗi ngắn hạn và dài hạn” trong dân và doanh nghiệp. Chính phủ nên thông qua hình thức phát hành trái phiếu nhiều hơn nữa liên quan tới các dự án đầu tư công để huy động ngoại tệ và các tài sản quý như vàng bạc, đá quý. Mặt khác, Chính phủ cần sớm ban hành cơ chế thí điểm có giám sát (sandbox) cho các hoạt động fintech, trong đó có hoạt động cho vay ngang hàng (p2p lending).
Thứ sáu, trong bối cảnh dịch bệnh Covid-19 diễn biến ngày càng phức tạp trên toàn cầu, các tổng công ty, tập đoàn lớn của các nước như Mỹ, Nhật Bản, Châu Âu và Hàn Quốc đang có xu hướng dịch chuyển “nóng” qua các quốc gia khác (thậm chí có sự hỗ trợ của Chính phủ nước họ). Việt Nam là một nước có nền kinh tế phát triển mạnh, nền chính trị vững vàng, trật tự an toàn xã hội ổn định và có tỷ lệ dân số “vàng” đầy hấp dẫn. Do đó, đề nghị Chính phủ cần có những giải pháp hữu hiệu, vượt trội để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài tham gia vào thị trường Việt Nam.
Cuối cùng, đề nghị Thủ tướng Chính phủ; Chính phủ và các cơ quan liên quan nghiêm khắc xử lý tất cả các hành vi vi phạm nhằm lợi dụng chính sách của Đảng và Nhà nước để trục lợi trong thời điểm toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đang gồng mình lên để chống trọi với đại dịch Covid-19 và khắc phục hậu quả sau dịch.