Ông Thomas Schuller-Götzburg, Đại sứ Cộng hòa Áo tại Việt Nam.
EVFTA dự kiến được ký kết và có hiệu lực trong năm 2019. Ông nhận định ra sao về cơ hội đầu tư và thương mại cho hai nước từ hiệp định này?
Tôi hy vọng, EVFTA sẽ sớm được ký kết và có hiệu lực. Áo rất ủng hộ EVFTA và hy vọng rằng, hiệp định này sẽ giúp tăng cường hơn nữa quan hệ kinh tế, thương mại và đầu tư giữa Áo và Việt Nam.
Áo đã có đầu tư trực tiếp vào Việt Nam, nhưng chưa nhiều. Trong thời gian tới, đầu tư của Áo vào Việt Nam chắc chắn sẽ tăng lên nhờ EVFTA, vì hiệp định này sẽ buộc Việt Nam phải đẩy mạnh cải cách để thu hút thêm đầu tư. Doanh nghiệp của Áo rất hài lòng khi đầu tư tại Việt Nam. Họ đang nói nhiều đến Việt Nam là thị trường tiềm năng và sẵn sàng mở rộng đầu tư tại đây.
Ông có thể nói rõ hơn về tầm quan trọng của thị trường Việt Nam đối với doanh nghiệp Áo?
Theo Hội đồng Thương mại Áo, hoạt động đầu tư tại Việt Nam rất tiềm năng. Việt Nam có hệ thống chính trị và xã hội rất ổn định. Chính phủ Việt Nam đang nỗ lực đem lại một môi trường đầu tư, kinh doanh tốt cho các nhà đầu tư và doanh nghiệp. Việt Nam có dân số trẻ, với lực lượng lao động có chuyên môn đáng tin cậy. Đây là một trong những động lực phát triển lớn cho Việt Nam.
So sánh với các nước châu Á khác, Việt Nam có chi phí sản xuất thấp hơn. Ngoài ra, Việt Nam cũng có vị trí địa lý rất phù hợp để các doanh nghiệp sản xuất hàng hóa và xuất khẩu sang các thị trường khu vực Đông Nam Á, các thị trường châu Á cùng các nước khác trên thế giới.
Việt Nam có tốc độ tăng trưởng tương đối tốt trong những năm gần đây. Tôi được biết, hiện không nhiều nước thuận lợi như Việt Nam. Do vậy, đối với doanh nghiệp Áo, Việt Nam là địa điểm đầu tư, kinh doanh rất thuận tiện.
Rất nhiều doanh nghiệp Áo có tiềm lực rất mạnh về vốn và công nghệ sẽ gia tăng đầu tư vào Việt Nam.
Trong thời gian tới, doanh nghiệp Áo quan tâm đầu tư trong lĩnh vực gì tại Việt Nam, thưa ông?
Tôi cho rằng, doanh nghiệp Áo muốn đầu tư trong nhiều lĩnh vực tại Việt Nam như xây dựng, công nghệ cơ khí, công nghệ cao.
Chính phủ Việt Nam đang nỗ lực nâng cấp hạ tầng để thu hút hơn nữa các nhà đầu tư nước ngoài đến với Việt Nam. Trong đó phải kể đến kế hoạch xây dựng hàng loạt nhà máy điện, nhà máy thép, nhà máy sản xuất hoá dầu và phát triển đô thị.
Trong lĩnh vực đường sắt, ngoài các kế hoạch xây dựng tàu điện ngầm tại TP.HCM và Hà Nội, dự kiến trong vài năm tới, các tuyến đường sắt và mạng lưới đường bộ sẽ được mở rộng hơn nữa.
Do nhu cầu sử dụng điện ngày càng tăng, nên hàng loạt nhà máy điện đang nằm trong kế hoạch xây dựng. Hạ tầng viễn thông, đặc biệt là trong lĩnh vực an ninh công cộng và hạ tầng y tế thường xuyên được nâng cấp. Do đó, cơ hội hợp tác kinh doanh dành cho các công ty hoạt động trong lĩnh vực hạ tầng, y tế và viễn thông của Áo là rất lớn. Ngoài ra, các dự án trong lĩnh vực đào tạo cũng nhận được nhiều sự chú ý của doanh nghiệp Áo.
Về hợp tác du lịch, nhiều người dân Áo có thể đến Việt Nam du lịch và sau đó thực hiện các dự án đầu tư. Nhiều công ty của Áo coi Việt Nam là thị trường lớn không chỉ cho họ, mà còn cho cả các nhà đầu tư đến từ châu Âu, Hoa Kỳ, Australia. Nói chung, Việt Nam là thị trường lớn của Áo.
Các nhà đầu tư của Áo hiện có gặp khó khăn gì tại Việt Nam không, thưa ông?
Khó khăn thì ở thị trường nào cũng có. Ở Việt Nam, Chính phủ đang nỗ lực đẩy mạnh cải cách và tạo dựng môi trường kinh doanh tốt hơn cho doanh nghiệp.
Trước đây, doanh nghiệp Áo thường quan tâm nhiều đến các thị trường như Trung Quốc và châu Âu. Nhưng hiện nay, họ chú ý hơn tới Việt Nam, coi Việt Nam là điểm đầu tư mới, hấp dẫn trên bản đồ đầu tư ra nước ngoài của mình.
Ông đánh giá thế nào về triển vọng kinh tế Việt Nam?
Kinh tế Việt Nam đã tăng trưởng rất tích cực trong những năm qua. Năm 2018, tốc độ tăng trưởng của Việt Nam là 7,08%, cao hơn rất nhiều so với nhiều nước.
Tôi cho rằng, Việt Nam sẽ tiếp tục tăng trưởng mạnh mẽ hơn nữa trong những năm tới, vì nhiều doanh nghiệp nước ngoài sẽ tiếp tục đầu tư vào đây nhờ môi trường đầu tư, kinh doanh tốt hơn và nhờ những hiệp định thương mại tự do mà Việt Nam tham gia.