Trả lời:
Trong thư của ông, không nói rõ ông đã mua đất gì (nông nghiệp hay thổ cư) và việc nhận chuyển nhượng đã được thực hiện như thế nào (giấy tay hay hợp đồng có công chứng, chứng thực) nên chúng tôi chưa thể tư vấn cụ thể được. Tuy nhiên, chúng tôi nêu quy định pháp luật liên quan để ông đối chiếu với trường hợp cụ thể của mình.
Điều 64, Luật Đất đai năm 2013 quy định về việc thu hồi đất do vi phạm pháp luật về đất đai. Theo đó, các trường hợp thu hồi đất do vi phạm pháp luật về đất đai, bao gồm: Sử dụng đất không đúng mục đích đã được Nhà nước giao, cho thuê, công nhận quyền sử dụng đất và đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi sử dụng đất không đúng mục đích mà tiếp tục vi phạm; Người sử dụng đất cố ý hủy hoại đất; Đất được giao, cho thuê không đúng đối tượng hoặc không đúng thẩm quyền.
Ngoài ra, còn có các trường hợp đất không được chuyển nhượng, tặng cho theo quy định của luật này mà nhận chuyển nhượng, nhận tặng cho; Đất được Nhà nước giao quản lý mà để bị lấn, chiếm; Đất không được chuyển quyền sử dụng đất theo quy định của luật này mà người sử dụng đất do thiếu trách nhiệm để bị lấn, chiếm.
Hay như các trường hợp người sử dụng đất không thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước và đã bị xử phạt vi phạm hành chính mà không chấp hành; Đất trồng cây hàng năm không được sử dụng trong thời hạn 12 tháng liên tục; Đất trồng cây lâu năm không được sử dụng trong thời hạn 18 tháng liên tục; Đất trồng rừng không được sử dụng trong thời hạn 24 tháng liên tục...
Việc thu hồi đất do vi phạm pháp luật về đất đai phải căn cứ vào văn bản, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định hành vi vi phạm pháp luật về đất đai.
Luật gia Nguyễn Văn Khôi, Chuyên viên Tư vấn pháp luật - Trung tâm Tư vấn pháp luật TP.HCM, Trung ương Hội Luật gia Việt Nam