Việc đầu tư hệ thống năng lượng mặt trời áp mái vừa góp phần giảm thiểu phát thải các-bon vừa mang lại giá trị tài chính cho doanh nghiệp

Việc đầu tư hệ thống năng lượng mặt trời áp mái vừa góp phần giảm thiểu phát thải các-bon vừa mang lại giá trị tài chính cho doanh nghiệp

“Đại dương xanh” của doanh nghiệp

0:00 / 0:00
0:00
(ĐTCK) Nhiều công ty vẫn nhìn nhận việc phát triển bền vững và khử các-bon theo góc nhìn ngắn hạn là nhằm tuân thủ các yêu cầu luật định. Điều này vô hình trung khiến doanh nghiệp đánh giá thấp các lợi ích tài chính dài hạn khổng lồ họ có thể tạo ra.

Áp lực khử các-bon

Châu Á - Thái Bình Dương đang là khu vực tăng trưởng nhanh nhất thế giới, nhưng cũng nằm trong tâm điểm của khủng hoảng khí hậu, trên cả khía cạnh làm gia tăng phát thải các-bon (với lượng phát thải chiếm gần một nửa tổng số phát thải toàn cầu) và phải hứng chịu các tác động của biến đổi khí hậu.

Các nền kinh tế đang phát triển ở châu Á - Thái Bình Dương là động lực tăng trưởng của khu vực, song cũng chịu ảnh hưởng lớn nhất từ tác động của biến đổi khí hậu. Nếu không có các hành động ứng phó với biến đổi khí hậu kịp thời thì khu vực này có thể thiệt hại đến 24% tổng sản phẩm quốc nội (GDP) do ảnh hưởng của biến đổi khí hậu tính đến năm 2100.

Cuộc khủng hoảng năng lượng đã thay đổi các ưu tiên về chính trị - xã hội trên toàn cầu. Tại nhiều nền kinh tế, các nỗ lực tự do hóa thị trường đã chững lại, nhường sự ưu tiên cho vấn đề an ninh năng lượng. Sự gián đoạn về nguồn cung năng lượng, giá năng lượng tăng vọt, nhu cầu năng lượng tăng đột biến sau đại dịch và nhiệt độ mùa hè cao kỷ lục trong năm 2022 đã gây ra tình trạng mất điện ngoài kế hoạch và hóa đơn tiêu thụ năng lượng tăng cao. Điều này gây áp lực cho người dân và các chính phủ phải quay lại sử dụng các hình thức năng lượng rẻ hơn và phát thải nhiều hơn, ví dụ như nhiệt điện than.

Một vấn đề khác là thiếu hụt đầu tư vào năng lượng tái tạo. Trong năm 2022, châu Á có công suất lắp đặt năng lượng tái tạo mới chiếm khoảng 60% tổng công suất lắp đặt mới của thế giới và có công suất năng lượng tái tạo chiếm 48% của thế giới. Tuy nhiên, theo Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA), các khoản đầu tư vào năng lượng sạch hàng năm của khu vực này cần tăng hơn gấp đôi, từ 62,3 tỷ USD vào năm 2022 lên 138,6 tỷ USD trong giai đoạn 2026 - 2030 và lên đến 165,8 tỷ USD trong giai đoạn 2031 - 2035 để đạt cam kết phát thải ròng bằng 0 (Net Zero) vào năm 2050. IEA cũng cho biết, ngoại trừ Trung Quốc, các nước còn lại trong châu Á sẽ cần tăng 6 - 8 lần mức đầu tư hàng năm so với năm 2022 vào giai đoạn 2031 - 2035.

Cuối cùng, quy mô của các nền kinh tế khu vực đã tăng hơn gấp đôi kể từ năm 2000 với nguồn cung năng lượng có tỷ lệ tăng trưởng kép trung bình 3,7% trong hai thập kỷ qua. Mức tăng trưởng về nhu cầu năng lượng của các nền kinh tế đang phát triển ở khu vực này dự kiến sẽ chiếm gần 2/3 mức tăng của toàn cầu vào năm 2040. Các nền kinh tế này sẽ ngày càng phụ thuộc vào việc nhập khẩu năng lượng (đặc biệt là dầu khí) để duy trì tăng trưởng kinh tế.

Cách thức để doanh nghiệp đóng góp vào tiến trình khử các-bon

Chuyển từ giai đoạn thiết lập mục tiêu sang giai đoạn triển khai

Các doanh nghiệp đang cho thấy sự chậm trễ trong việc hiện thực hóa tham vọng đạt mục tiêu phát thải ròng bằng 0 (Net Zero). Họ cần phải cân nhắc thực hiện phân tích tính trọng yếu kép (về tác động hai chiều giữa hoạt động của doanh nghiệp và các vấn đề phát triển bền vững), đồng thời huy động tất cả các phòng ban hướng tới việc chuyển đổi để đạt được Net Zero. Từ bộ phận sản xuất, mua hàng và tài chính tới bộ phận marketing, công nghệ và quản trị nguồn nhân lực, tất cả bộ máy cần chuyển đổi cách vận hành, xử lý và quản lý nhân sự cũng như các nguồn lực khác.

Ưu tiên tiến độ, thay vì sự cầu toàn

Khử các-bon là một quá trình mang tính dài hạn và sẽ còn phức tạp cũng như gặp nhiều thách thức hơn nữa trong bối cảnh thị trường nhiều bất ổn. Việc phát triển bền vững và đạt mục tiêu Net Zero là những vấn đề phức tạp, với các tiêu chuẩn, quy định, khung triển khai, kỳ vọng, công nghệ và cơ sở khoa học liên tục thay đổi.

Để thành công trong bối cảnh này, các doanh nghiệp cần có sự thay đổi trong tư duy - từ tư duy hướng tới sự ổn định, chắc chắn sang tư duy hướng tới cách tiếp cận kiên trì và linh hoạt. Điều này sẽ mang lại cho doanh nghiệp khả năng thích ứng và tính bền bỉ trong hành trình hướng tới Net Zero.

Nhìn thấy tiềm năng kiến tạo giá trị, thay vì đối phó

Nhiều công ty vẫn nhìn nhận việc phát triển bền vững và khử các-bon theo góc nhìn ngắn hạn là nhằm tuân thủ các yêu cầu luật định. Điều này vô hình trung sẽ khiến doanh nghiệp đánh giá thấp các lợi ích tài chính dài hạn khổng lồ họ có thể tạo ra. Bằng cách tích hợp phát triển bền vững vào chiến lược tổng thể, mô hình hoạt động và các quy trình vận hành, doanh nghiệp có tiềm năng rất lớn trong việc tạo ra giá trị.

Hỗ trợ quá trình chuyển đổi công bằng

Các doanh nghiệp siêu nhỏ, nhỏ và vừa (MSME) đóng góp 41% GDP khu vực châu Á - Thái Bình Dương và 69% lực lượng lao động quốc gia. ASEAN ước tính đóng góp kinh tế của các doanh nghiệp này còn ở mức cao hơn, chiếm tới 85% lượng việc làm. Theo OECD, các doanh nghiệp vừa và nhỏ trên toàn cầu cũng chiếm ít nhất 50% lượng phát thải khí nhà kính của nhóm ngành kinh doanh.

Việc chuyển đổi thành công sang trạng thái Net Zero tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương phụ thuộc phần lớn vào sự tham gia tích cực của các MSME. Tuy nhiên, các MSME sẽ cần nhiều sự hỗ trợ để thực hiện hiệu quả quá trình chuyển đổi này. Bằng cách hợp tác với chuỗi cung ứng, các doanh nghiệp với quy mô lớn hơn có thể hỗ trợ các MSME triển khai các điều chỉnh cần thiết để giảm lượng phát thải Phạm vi 3 (Scope 3) xuyên suốt chuỗi giá trị.

Lộ trình tương lai cho doanh nghiệp

Các cơ hội và chiến lược kiến tạo giá trị giúp doanh nghiệp khử các-bon bao gồm:

Hỗ trợ các doanh nghiệp khác giảm lượng phát thải Phạm vi 3: Áp lực từ công chúng và các nhà đầu tư về việc doanh nghiệp cần tạo tác động trong ứng phó với biến đổi khí hậu ngày càng tăng cao. Một trong những thử thách lớn nhất là giảm lượng phát thải Phạm vi 3, vốn chiếm tới 65 - 95% lượng phát thải các-bon của phần lớn các doanh nghiệp.

Chuyển đổi sang mô hình kinh tế tuần hoàn: Kinh tế tuần hoàn là một mô hình sản xuất và tiêu thụ nhằm lưu giữ tài nguyên trong vòng tuần hoàn lâu nhất có thể. Việc chuyển đổi sang mô hình kinh tế tuần hoàn ước tính sẽ mang lại cơ hội thu hồi 30 - 50% giá trị trong việc tái sử dụng, tân trang và tái sản xuất, cũng như tạo cơ hội tăng trưởng kinh tế trị giá 324 tỷ USD cho các nước ASEAN.

Đầu tư vào các giải pháp dựa vào thiên nhiên: Các giải pháp dựa vào thiên nhiên là các hành động doanh nghiệp có thể thực hiện để tích hợp tiềm năng của thiên nhiên vào quá trình vận hành nhằm giảm thiểu lượng phát thải, tăng cường khả năng ứng phó với biến đổi khí hậu và giảm rủi ro về thiên tai, đồng thời mang lại các lợi ích về môi trường và xã hội, dẫn đến lợi ích tài chính. Liên hợp quốc ước tính rằng, những giải pháp này có tiềm năng loại bỏ tới 12 tỷ tấn CO2 tương đương mỗi năm và mang lại thêm 2.300 tỷ USD giá trị tăng trưởng sản xuất cho nền kinh tế toàn cầu.

Khai thác công nghệ khí hậu. Các doanh nghiệp có thể khai thác thị trường đang tăng trưởng này bằng cách thành lập một nhánh đầu tư mạo hiểm để đầu tư vào các công ty công nghệ khí hậu, đồng thời sử dụng sản phẩm và các dịch vụ của họ để giảm phát thải khí nhà kính. Hơn nữa, việc đưa các công ty công nghệ khí hậu vào danh mục đầu tư có thể hỗ trợ các công ty và nhà cung cấp khác trong danh mục trên hành trình hướng tới khử các-bon.

Áp dụng các biện pháp thích ứng với biến đổi khí hậu: Cả khu vực nhà nước và khu vực tư nhân đều cần đầu tư vào các biện pháp thích ứng để giảm thiểu các tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu. Diễn đàn Kinh tế Thế giới dự đoán rằng, các sáng kiến về thích ứng với biến đổi khí hậu có thể tạo ra thêm mức doanh thu trị giá 4.300 tỷ USD và 232 triệu việc làm mới vào năm 2030.

Quá trình thích ứng với biến đổi khí hậu dự kiến sẽ thúc đẩy tăng trưởng việc làm trong các lĩnh vực như thiết kế và sáng tạo các vật liệu xây dựng mới, lập mô hình rủi ro, các hệ thống cảnh báo sớm, bảo hiểm rủi ro khí hậu, các công trình chống chịu lũ lụt và lĩnh vực nông nghiệp (bao gồm việc phát triển giống cây trồng có thể thích ứng với biến đổi khí hậu).

Tin bài liên quan