Sự thử thách của lòng tin
Kinh tế Việt Nam bước vào năm 2020 với những đỉnh mới, cả về tốc độ tăng trưởng, quy mô thị trường cũng như sự hấp dẫn của môi trường kinh doanh. Khí thế hào hứng đang lan rộng.
Việt Nam đã có một năm kinh tế thành công, thưa ông?
Nói khái quát, kinh tế 2019 có nhiều điểm tích cực, điểm sáng, nhưng còn không ít băn khoăn.
Điểm tích cực rất rõ. Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu tăng trưởng giảm tốc, các dự báo liên tục thay đổi, Việt Nam đạt mức tăng trưởng 7,02%, kinh tế vĩ mô tương đối ổn định, lạm phát thấp, cán cân thanh toán thặng dư, tăng trưởng xuất khẩu dù chậm lại, nhưng vẫn ở mức tốt...
Không chỉ vậy, giới kinh doanh cũng nhìn thấy cơ hội lớn ở thị trường Việt Nam.
Theo Báo cáo “Kinh doanh xuyên lãnh thổ trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương 2019-2020” của Công ty PriceWaterhouseCooper (PwC), 44% lãnh đạo doanh nghiệp APEC tại Việt Nam có kế hoạch tăng cường đầu tư vào Việt Nam trong năm tới;
49% lãnh đạo doanh nghiệp ở Việt Nam “rất lạc quan” về tăng trưởng doanh thu trong năm 2020, so với chỉ số trung bình trong khối APEC là 34%.
62% lãnh đạo doanh nghiệp Việt Nam được khảo sát kỳ vọng sẽ tăng cường đầu tư trong nước trong năm nay, tỷ lệ này cao hơn ở Trung Quốc, Nhật Bản và Singapore...
Vậy, điều gì khiến ông còn băn khoăn, trăn trở?
Tôi muốn thấy nhiều hơn sự bứt phá, điều mà tôi chờ đợi khi Nghị quyết 01/2019/NQ-CP về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2019 đã nhấn mạnh rất nhiều đến bứt phá.
Nhưng sau một năm, giải ngân đầu tư công vẫn chậm, nhìn rộng ra, tái cơ cấu đầu tư công vẫn chưa ổn. Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước năm 2019 mới làm được 28% kế hoạch...
Chuyên gia kinh tế Võ Trí Thành.
Ngay cả những điểm sáng, như việc tăng 10 hạng trên bảng xếp hạng về Năng lực cạnh tranh quốc gia của Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF), lên vị trí 67/141, thì Việt Nam vẫn ở thứ hạng thấp về sự năng động của doanh nghiệp (89/141) và năng lực đổi mới sáng tạo (76), thể chế (89); cơ sở hạ tầng (77); y tế (71); kỹ năng (93); thị trường sản phẩm (79); thị trường lao động (83)...
Đây là những chỉ số thể hiện chất lượng bền vững của năng lực cạnh tranh quốc gia và rõ ràng, những nỗ lực bứt phá để cải thiện vẫn chưa đủ mạnh.
Đặc biệt, thanh khoản thị trường cổ phiếu giảm tới 29% so với năm 2018, quy mô giao dịch trên thị trường cổ phiếu năm 2019 chỉ đạt trung bình 4.639 tỷ đồng/phiên, giảm 29%;
Tổng vốn huy động qua phát hành cổ phiếu trên thị trường chứng khoán năm 2019 cũng giảm khá mạnh, tới 41% so với năm 2018.
Thị trường bất động sản cũng vậy, nguồn cung giảm, giao dịch thành công giảm...
Có thể lý giải bằng nhiều lý do, như chính sách tiền tệ chặt chẽ, các yếu tố pháp lý, các hoạt động thanh tra, kiểm tra... cũng như những khía cạnh liên quan đến thể chế thiếu nhất quán, chưa rõ ràng.
Nhưng tôi cho rằng, lòng tin của thị trường, của công chúng, của nhà đầu tư đang bị thử thách. Và đây cũng là thách thức của Chính phủ, của doanh nghiệp trong năm 2020.
Đối sách trong một thế giới biến động
Năm 2020, các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô được xây dựng ở mức khá thận trọng, với tốc độ tăng trưởng GDP khoảng 6,8%, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu tăng khoảng 7%...
Thậm chí, trong Nghị quyết 01/2020/NQ-CP, Chính phủ cũng đã đưa ra các kịch bản tăng trưởng năm 2020 để theo dõi, cập nhật định kỳ, chủ động có giải pháp ứng phó...
Chính phủ hoàn toàn có thể tự tin đặt các mục tiêu tăng trưởng cao hơn, thưa ông?
Khí thế của năm 2019 là điểm bắt đầu thuận lợi cho kinh tế Việt Nam năm 2020.
Nhưng, thế giới vẫn là thời của chuyển đổi (giữa hiện trạng và xu thế), thời của va đập (tự do hóa và bảo hộ;
Đa phương hóa và đơn phương; xung đột thương mại, địa chính trị của các nước lớn...), thời của sáng tạo tài chính và lòng tham; thời của biến đổi khí hậu. Sự thận trọng là cần thiết.
Sự thận trọng này còn hàm chứa những nhận diện khó khăn trong nội tại nền kinh tế Việt Nam, khi việc chuyển đổi mô hình tăng trưởng vẫn phải rất nỗ lực để thực hiện, trong đó nhiều chỉ tiêu thực sự thách thức như năng suất lao động, năng lực đổi mới sáng tạo...
Đặc biệt, điều mà chúng ta chờ đợi nhất từ tác động của Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) cũng như các hiệp định thương mại thế hệ mới là cải cách thể chế, hoàn thiện nền kinh tế hiện đại, hội nhập đúng nghĩa thị trường... chưa được nhiều, nghĩa là thách thức còn lớn.
Sự thận trọng còn có nghĩa là Chính phủ tiếp tục xác định ổn định kinh tế vĩ mô, cải cách, hoàn thiện thể chế để đáp ứng các yêu cầu của hội nhập cũng như đòi hỏi của xu thế phát triển mới là trọng tâm trong điều hành của Chính phủ trong năm 2020.
Phải chăng vì vậy, trong một cuộc trao đổi với doanh nghiệp về tình hình kinh tế năm 2020, ông đã nói tới việc không nhất thiết phải xây dựng các chiến lược dài hạn...
Đây là một cách để nói khi nhìn vào một thế giới đầy trắc trở, khó lường. Thậm chí, thế giới đang nói đến sự thất bại của hình dung về tương lai.
Những gì mà thế giới hình dung trong những năm 1960 về máy bay phản lực, về các phương tiện giao thông thông minh... thì những năm 1990-2000 đã diễn ra khá nhiều.
Rồi những năm 1990, nhiều điều hình dung về công nghệ thông tin, về mạng Internet... cũng thành hiện thực vào sau năm 2000...
Nhưng giờ, không nhiều người dám dự báo về công nghệ của 5-10 năm tới. Khi GS. Klaus Schwab, người sáng lập và là Chủ tịch điều hành WEF công bố cuốn sách Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư vào cuối năm 2016, blockchain chưa được nhắc đến nhiều, AI chưa được quá nhấn mạnh, nhưng thời điểm này, chỉ sau 2-3 năm, đây là những từ khóa, là công nghệ tiên phong nhất...
Đó là chưa kể thế giới đang đối mặt với quá nhiều bất định rủi ro do biến đổi khí hậu, địa chính trị...
Thậm chí, có những xu thế không thay đổi, nhưng nội hàm của nó không như trước. Như xu thế đa cực chắc là đúng, nhưng cuộc chiến thương mại với sự tranh giành ảnh hưởng của các nước lớn đã tạo nên những xáo trộn.
Xu thế công nghệ, chuyển đổi số chắc chắn diễn ra, nhưng tốc nhanh, chậm thế nào, cuộc chiến công nghệ tới đây sẽ có biểu hiện ra sao thì chưa thực sự rõ...
Những thất bại trong hình dung tương lai khiến dự báo mất đi nhiều ý nghĩa. Các tổ chức quốc tế uy tín nhất cũng cứ vài tháng lại cập nhật lại các dự báo của mình.
Chúng ta đã thấy sự thay đổi nhanh chóng trong các quyết định đầu tư hay thóa lui của các doanh nghiệp lớn như Vingroup.
Nhiều doanh nghiệp cũng đang làm như vậy. Trong bối cảnh này, doanh nghiệp cần tầm nhìn, cần quản trị rủi ro, quản trị bất định cùng với khả năng chấp nhận cạnh tranh và kết nối.
Đây là những điều mà tôi muốn khuyến nghị tới doanh nghiệp.
Từ khóa của điều hành vẫn là bứt phá
Trung tâm Thông tin và Dự báo kinh tế – xã hội quốc gia đã xây dựng 2 kịch bản dự báo tăng trưởng kinh tế giai đoạn 2021-2025.
Theo đó, với nhiều khả năng xảy ra hơn, tốc độ tăng trưởng GDP Việt Nam sẽ đạt khoảng 7%/năm trong giai đoạn 2021-2025.
Nhưng nếu Việt Nam tận dụng được công nghệ, cải thiện chất lượng thu hút đầu tư, phát triển tốt nền tảng kinh tế hiện tại, có kỳ vọng GDP tăng trưởng 7,5%/năm.
Ông có cho rằng, Việt Nam có thể đi nhanh hơn trong hội nhập?
Hội nhập, cải cách để bắt kịp và đi cùng thời đại là lựa chọn không thể khác, song không phải lúc nào thế giới cũng “chiều lòng” chúng ta.
Nhận diện đúng thách thức, cơ hội để quyết liệt với các hành động là giải pháp.
Nhưng luôn có khoảng cách giữa mong muốn và thực thi. Bản thân bộ máy nhà nước luôn có tính quan liêu, sức ỳ cao, trong khi thị trường bao giờ cũng năng động, uyển chuyển hơn.
Thời gian qua, chúng ta nói đến start-up, sandbox, nhưng chưa làm được nhiều, chưa theo kịp đòi hỏi của thực tế, khiến câu chuyện của fintech, rồi Grab, Uber, rồi condotel... vẫn treo lơ lửng.
Nền kinh tế số có những quy luật mới, không phải tuyến tính, không phải sự kéo dài của quá khứ là tương lai, nên nếu người đứng đầu không dám chấp nhận cuộc chơi, không dám chơi, thì cả bộ máy sẽ không ai dám làm.
Ở Việt Nam, vấn đề không chỉ là những thách thức với xu hướng mới, mà ngay cả những câu chuyện truyền thống, những nút thắt thể chế còn chưa được gỡ hết, khiến nhiều người trong bộ máy không dám làm khác, không dám sáng tạo dù có thể có tâm tốt, có năng lực...
Rất khó đi nhanh trong bối cảnh này.
Trong cuộc gặp Thủ tướng Chính phủ với doanh nghiệp năm 2019, Thủ tướng đã nói sẽ loại ra những cán bộ ngần ngừ, trì trệ...
Chúng ta vẫn nói, doanh nghiệp được làm những gì pháp luật không cấm, công chức chỉ làm những gì pháp luật cho phép...
Điều này đúng, nhưng với thời điểm này, chúng ta phải đặt thêm câu hỏi, có cho phép công chức được phạm sai lầm không?
Nếu muốn công chức sáng tạo thì dư địa nào, chiều cạnh nào, cơ chế giám sát thế nào để họ sẵn sàng sáng tạo.
Chìa khóa ở đây là phải có cơ chế bảo vệ, cơ chế động lực, cách thức giám sát phù hợp để thúc đẩy công chức làm việc.
Hơn 10 năm trước, tôi đã nói đến chiến lược đàng hoàng hóa thu nhập.
Và có lẽ bây giờ, mong muốn này vẫn còn nguyên tính thời sự, để giới công chức nhận thấy, thà nhận 1 đồng đàng hoàng vẫn thích hơn nhận 2 đồng mà không đàng hoàng.
Trong năm 2020, tôi mong thấy rõ hình ảnh một nhà nước pháp quyền, một chính phủ phục vụ công dân, doanh nghiệp minh bạch, có khả năng giải trình, trách nhiệm...
Trong thế giới đa cực, kinh tế bất định, lòng tin của nhà đầu tư, của doanh nghiệp... sẽ quyết định tốc độ của Việt Nam trong hội nhập.