Tăng trưởng tín dụng đến ngày 24/4 chỉ tăng 2,66%, cho thấy tình hình sản xuất, kinh doanh gặp khó khăn.
Thừa uỷ quyền Thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng vừa ký báo cáo về đánh giá bổ sung kết quả thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2022; những tháng đầu năm 2023 gửi Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Đây là nội dung sẽ được Ủy ban Thường Quốc hội cho ý kiến đầu tiên trong phiên họp thứ 23, (từ 9 - 12/5).
Báo cáo nêu rõ, so với báo cáo tại Kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa XV, với số liệu, thông tin đầy đủ, chuẩn xác hơn, kết quả thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội năm 2022 sau khi đánh giá bổ sung đã có nhiều thay đổi tích cực hơn.
Như, tốc độ tăng GDP năm 2022 đạt 8,02% so với năm trước (đã báo cáo là khoảng 8%); CPI bình quân năm 2022 tăng 3,15% so với năm trước (đã báo cáo là khoảng 4%); thu NSNN năm 2022 đạt 1.815,5 nghìn tỷ đồng, cao hơn 201,4 nghìn tỷ đồng so với số đã báo cáo Quốc hội.
Vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội năm 2022 theo giá hiện hành ước đạt 3.219,8 nghìn tỷ đồng (đã báo cáo là đạt khoảng 3.201,5 nghìn tỷ đồng); dòng vốn FDI thực hiện cả năm tăng khoảng 13,5% so với năm 2021 (đã báo cáo là khoảng 6,4-11,5% so với năm 2021); kim ngạch xuất khẩu đạt 371,3 tỷ USD, tăng khoảng 10,5% so với năm 2021 (đã báo cáo là 368 tỷ USD, tăng khoảng 9,5%); xuất siêu đạt hơn 12,4 tỷ USD (đã báo cáo là khoảng 01 tỷ USD)…
Tuy nhiên, có 2/12 chỉ tiêu chủ yếu không đạt mục tiêu đề ra (số đã báo cáo Quốc hội là 1 chỉ tiêu không đạt) do có thêm chỉ tiêu tỷ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo trong GDP chỉ đạt 24,76% (số đã báo cáo Quốc hội là khoảng 25,7-25,8%), thấp hơn mục tiêu đề ra (25,7-25,8%).
Cập nhật tình hình những tháng đầu năm 2023, báo cáo nêu nhiều con số đáng chú ý.
Chẳng hạn, tăng trưởng tín dụng đến ngày 24/4 chỉ tăng 2,66% , cho thấy tình hình sản xuất, kinh doanh gặp khó khăn, khả năng hấp thụ vốn của doanh nghiệp, nền kinh tế tiếp tục khó khăn. Mặt bằng lãi suất cho vay dù đã giảm nhưng vẫn ở mức cao, bình quân là 9,56%/năm.
Tính chung 4 tháng, chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp (IIP) vẫn giảm 1,8% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2022 tăng 7,8%), trong đó IIP công nghiệp chế biến, chế tạo giảm 2,1% (cùng kỳ năm 2022 tăng 8,5%). Sản xuất của một số ngành công nghiệp chủ lực như dệt may, điện tử, đồ gỗ, xe có động cơ… và của một số địa bàn công nghiệp trọng điểm như Bắc Ninh, Vĩnh Phúc… vẫn giảm hoặc tăng thấp.
Đầu tư tư nhân trong nước và thu hút FDI vẫn còn khó khăn. Vốn FDI đăng ký 4 tháng giảm 17,9% so với cùng kỳ năm trước. Việc áp dụng thuế suất tối thiểu toàn cầu có thể ảnh hưởng đến chính sách thu hút đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới và quay trở lại hoạt động 4 tháng giảm 2% so với cùng kỳ (gần 78,9 nghìn doanh nghiệp), trong khi doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường tăng 25,1% (77 nghìn doanh nghiệp).
Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu, xuất khẩu và nhập khẩu hàng hóa tính chung 4 tháng lần lượt giảm 13,6%, 11,8% và 15,4%, nhất là xuất khẩu sang các thị trường lớn giảm như: Mỹ (giảm 22,1%), EU (giảm 14,1%), Hàn Quốc (giảm 6,9%), ASEAN (giảm 1,3%)…; hàng rào kỹ thuật có xu hướng gia tăng. Xuất khẩu sang Trung Quốc 04 tháng giảm 7,9%, trong khi nền kinh tế nước này phục hồi khá tích cực, là vấn đề cần quan tâm để có giải pháp thúc đẩy xuất khẩu. Nhập khẩu tư liệu sản xuất 04 tháng giảm 15,1% so với cùng kỳ năm trước, cho thấy hoạt động sản xuất kinh doanh còn gặp nhiều khó khăn.
Về phương hướng, nhiệm vụ thời gian tới, Chính phủ nhận định, trong nước, hoạt động sản xuất kinh doanh, sản xuất công nghiệp, đầu tư, thu hút FDI,... tiếp tục gặp nhiều khó khăn, thách thức, nhưng có thể chuyển biến tích cực nếu tình hình thế giới thuận lợi hơn (báo cáo in đậm dòng này).
Theo Chính phủ, ở trong nước, mặc dù còn gặp nhiều khó khăn, thách thức nhưng tình hình sản xuất, kinh doanh, đầu tư, xuất nhập khẩu... được kỳ vọng sẽ có nhiều chuyển biến tích cực khi tình hình thế giới được cải thiện, thuận lợi hơn. Đồng thời, nhiều chính sách, giải pháp điều hành được sửa đổi, bổ sung và ban hành từ đầu năm đến nay đã và đang phát huy tác động tích cực, nhất là các giải pháp về phục hồi, phát triển kinh tế - xã hội, hỗ trợ và tháo gỡ khó khăn, vướng mắc đối với sản xuất, kinh doanh, doanh nghiệp, đầu tư, xuất nhập khẩu, bất động sản, trái phiếu doanh nghiệp, bảo đảm an sinh xã hội, kiểm soát dịch bệnh, sẵn sàng ứng phó với thiên tai, bão lũ, biến đổi khí hậu,... đi vào cuộc sống.
Bên cạnh đó, một số dự án lớn trong ngành công nghiệp chế biến, chế tạo sớm được đưa vào khai thác cũng sẽ hỗ trợ tích cực cho tăng trưởng quý II và cả năm 2023.
Đây là những động lực quan trọng để tiếp tục phấn đấu nhằm đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế cao nhất trong năm 2023, bám sát mục tiêu, chỉ tiêu Quốc hội đã đề ra tại Nghị quyết số 68/2022/QH15, Chính phủ nhấn mạnh.