Đề xuất nới lỏng chính sách tiền tệ đã chứng tỏ là vội vàng và không có căn cứ

Đề xuất nới lỏng chính sách tiền tệ đã chứng tỏ là vội vàng và không có căn cứ

Chiếc hộp Pandora và lựa chọn chính sách năm 2020

(ĐTCK) Trong thần thoại Hy Lạp, có một sự tích về chiếc hộp của nàng Pandora - người phụ nữ đầu tiên được phái đến thế giới loài người. Nàng được Zeus dặn kỹ rằng không được mở chiếc hộp đó ra. Nhưng với sự tò mò của mình, Pandora đã mở chiếc hộp kỳ bí đó và tất cả những điều bất hạnh tràn ngập khắp thế gian: thiên tai, bệnh tật, chiến tranh… Chiếc hộp chỉ còn sót lại một chút "hy vọng" mang tên Pandora cho loài người để có thể tiếp tục sống.

Toàn cầu lo sợ và lúng túng

Khởi phát từ đầu năm 2020, đến đầu tháng 4/2020, đại dịch Covid-19 đã lan rộng ra hầu hết các quốc gia trên thế giới với số ca nhiễm lên tới hàng triệu người. Dịch bệnh được coi là sự kiện toàn cầu lớn nhất kể từ Thế chiến thứ 2 nên tất cả các quốc gia đều không dự báo chính xác được mức độ tác động để có giải pháp đúng cho chính sách tiền tệ nói riêng, chính sách kinh tế vĩ mô nói chung nhằm khắc phục hậu quả và vượt qua dịch bệnh.

Mặc dù vậy, Mỹ đã dẫn đầu thế giới về cuộc đua “xuống đáy” khi liên tiếp cắt giảm lãi suất cơ bản về 0% chỉ trong vòng mấy ngày đầu tháng 3/2020, đi kèm với những gói bơm tiền khổng lồ lên đến hàng ngàn tỷ USD vào nền kinh tế vốn đang chao đảo vì dịch bệnh.

Chiếc hộp Pandora và lựa chọn chính sách năm 2020 ảnh 1

TS. Vũ Đình Ánh, Chuyên gia kinh tế

Chuỗi cung ứng toàn cầu gián đoạn do đứt mắt xích quan trọng hàng đầu là Trung Quốc với tỷ trọng khoảng 1/5 sản lượng công nghiệp của thế giới song hành với liên tiếp phong tỏa và cách ly từng khu vực, từng thành phố, thậm chí từng quốc gia đã khiến kinh tế toàn cầu khựng lại và suy thoái kinh tế cận kề.

Không chỉ dòng hàng hóa, dòng lao động mà cả dòng dịch vụ và tài chính tưởng như miễn nhiễm với dịch bệnh nhờ Cách mạng công nghiệp 4.0 cũng bị chặn đứng bởi nỗi lo sợ dịch bệnh bao trùm.

Lần đầu tiên trong thời hiện đại, kinh tế thế giới cùng một lúc phải chịu đựng cả cú sốc cung lẫn cú sốc cầu từ quy mô toàn cầu, quốc gia, thành phố đến cộng đồng dân cư và hộ gia đình. Hơn thế nữa, khủng hoảng và suy thoái kinh tế toàn cầu 2020 khác với tất cả các cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính trước đây là không bắt nguồn từ những sai lầm kinh tế - tài chính của chính quyền hay thị trường, mà từ nỗi lo sợ dịch bệnh đeo bám và lan rộng theo dòng luân chuyển hàng hóa, dịch vụ, lao động - cốt lõi của mọi hoạt động kinh tế - tài chính.

Hàng loạt thị trường rung lắc và đối mặt nguy cơ sụp đổ, từ thị trường hàng hóa, dịch vụ du lịch, thương mại... đến thị trường chứng khoán, thị trường dầu mỏ, thị trường tiền tệ và cả thị trường vàng.

Các công cụ tài chính tiền tệ truyền thống như bơm tiền thông qua các gói kích thích hay hỗ trợ, cắt giảm lãi suất hay phá giá tiền tệ, miễn giảm thuế phí, kể cả giảm giá hàng hóa, dịch vụ nhằm kích cầu đều khó có thể cứu vãn tình hình do các thị trường bị chia cắt, bị cách ly trong khi nỗi lo sợ lây nhiễm đến tất cả các thị trường bất kể mọi rào cản.

Chính sách kinh tế vĩ mô, trong đó có chính sách tiền tệ cần tập trung vào ngăn chặn nỗi lo sợ và hoảng loạn trên thị trường, khơi thông dòng chảy tiền tệ đang tắc nghẽn, thay vì đổ thêm dầu vào lửa thông qua đẩy thêm tiền vào thị trường, dù là tiền giá rẻ.

Việt Nam cần vững vàng và sáng suốt

Trọng tâm chính sách và chỉ đạo điều hành của Chính phủ năm 2020 là tập trung toàn lực ngăn chặn dịch bệnh lây lan, đồng thời hạn chế tới mức thấp nhất ảnh hưởng của dịch bệnh, cả ảnh hưởng vật chất, tài chính lẫn tinh thần, chứ không phải là bàn chuyện điều chỉnh hay không các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô, nới lỏng chính sách tài chính - tiền tệ để hỗ trợ tăng trưởng kinh tế, hay đa dạng hóa thị trường, cả thị trường xuất khẩu và nhập khẩu, thị trường hàng hóa lẫn thị trường dịch vụ...

Mọi đề xuất chỉ thực sự sáng suốt sau khi đã có những đánh giá toàn diện và có căn cứ từ thực tế cuộc sống, mà điều đó chỉ có sớm nhất là cuối quý I/2020. Trước hết, chúng ta cần xây dựng khung phân tích đánh giá tình hình, đồng thời chuẩn bị các kịch bản đối phó, kể cả kịch bản xấu nhất nhằm nắm thế chủ động trong mọi tình huống, đặc biệt khi “chiếc hộp Pandora” dịch bệnh vẫn ẩn chứa không ít điểm đen thông tin.

Theo đó, những nội dung trọng tâm của mỗi kịch bản là:

Thứ nhất, Covid-19 tác động trực tiếp đến các ngành dịch vụ, nhất là du lịch và vận tải hàng không, chưa kể dịch vụ ăn uống và thương mại hàng hóa. Các chỉ tiêu về biến động khách du lịch, không chỉ khách du lịch quốc tế mà cả du lịch trong nước, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng cũng như lưu lượng vận chuyển hành khách và hàng hóa cần được thu thập và phân tích thật chi tiết, kỹ lưỡng; đồng thời, phân tích rõ tác động của dịch bệnh Covid-19 đến các chỉ tiêu đó. Ngoài ra, không thể bỏ qua đánh giá tác động đến các lĩnh vực có liên quan đến dịch vụ, chẳng hạn như bất động sản du lịch, cơ sở hạ tầng thương mại, lao động trong các ngành dịch vụ, vốn đầu tư và dòng tiền của các cơ sở kinh doanh dịch vụ...

Thứ hai, Covid-19 không tác động trực tiếp và nặng nề tới khu vực công nghiệp và nông nghiệp như đối với khu vực dịch vụ song ảnh hưởng tiêu cực là không thể phủ nhận.

Chiếc hộp Pandora và lựa chọn chính sách năm 2020 ảnh 2

Ảnh hưởng nặng nề nhất của dịch bệnh khiến cho chuỗi cung ứng toàn cầu 
bị gián đoạn nghiêm trọng 

Trước hết là sự đình trệ sản xuất của Trung Quốc cũng như các quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề nhất của dịch bệnh khiến cho chuỗi cung ứng toàn cầu bị gián đoạn nghiêm trọng. Kể cả khi dịch đã dịu bớt cũng chưa thể nói trước đến bao giờ mới có thể được phục hồi trở lại. Theo đó, thương mại và sản xuất - kinh doanh toàn cầu nói chung, kinh tế Việt Nam nói riêng chịu tác động chưa từng thấy, kể cả thời khủng hoảng châu Á 1997-1999 hay khủng hoảng toàn cầu 2008 - 2009.

Trung Quốc, Hàn Quốc, châu Âu và Mỹ đều là những đối tác thương mại hàng đầu của Việt Nam nên Covid-19 chính là phép thử khắc nghiệt đối với tuyệt đại đa số nhà sản xuất Việt Nam, không kể thuộc ngành công nghiệp hay nông nghiệp. Biến động dữ dội của các yếu tố đầu vào lẫn đầu ra sẽ chỉ bộc lộ khi các doanh nghiệp và hộ nông dân sử dụng hết hàng hóa vật tư dự trữ sản xuất hay thực hiện hết các đơn hàng đã ký kết.

Vì vậy, việc phân tích đánh giá chính xác toàn bộ các yếu tố đầu vào, đầu ra của nền kinh tế và của từng nhà sản xuất là đặc biệt cần thiết và quan trọng.

Thứ ba, mặc dù đến giữa tháng 4/2020 ở Việt Nam mới có hơn 200 ca dương tính với nCOV nhưng nguồn lực và chi phí để phòng chống dịch không thể tách rời cân đối tổng thể phân bổ nguồn nhân tài vật lực của quốc gia năm 2020, thậm chí cân đối theo dự toán ngân sách nhà nước năm 2020 cũng cần được xem xét điều chỉnh cho phù hợp, cả phần chi ngân sách cũng như phần thu ngân sách, nhất là khi diễn biến dịch Covid-19 trên thế giới nói chung, ở Việt Nam nói riêng vẫn rất phức tạp và khó lường.

Thứ tư, nội dung cơ bản của mỗi kịch bản phát triển kinh tế - xã hội ứng phó với Covid-19 không phải là GDP tăng trưởng bao nhiêu hay lạm phát thế nào, kim ngạch xuất nhập khẩu tăng giảm ra sao, mà là hệ thống các chính sách để giảm thiểu thiệt hại do Covid-19 gây ra, sớm phục hồi sản xuất - kinh doanh, ổn định đời sống nhân dân.

Đến lượt mình, các chính sách đó cần đảm bảo cả 3 chữ "hiệu", gồm hiệu quả, hiệu lực và hiệu ứng. Tính nhất quán, đồng bộ cần được xuyên suốt từ chính sách tín dụng, tiền tệ, tài khóa, tỷ giá hối đoái, đến thương mại, đầu tư...

Đề xuất nới lỏng chính sách tiền tệ đã chứng tỏ là vội vàng và không có căn cứ. Mặc dù CPI bình quân năm 2019 chỉ tăng 2,79% so với bình quân năm 2018 và CPI tháng 3/2020 giảm nhẹ 0,72% so với tháng trước, song hồi chuông cảnh báo lạm phát đã được gióng lên từ tháng 12/2019 khi CPI tính theo cuối kỳ đã vượt ngưỡng 5% được thiết lập ổn định kể từ năm 2014.

Trong quý I, sau khi các tháng liên tiếp giảm so với các tháng trước, nhưng tính chung CPI 3 tháng đầu năm nay đã tăng tới 5,56% so với 3 tháng đầu năm ngoái, cao nhất 5 năm gần đây. Lạm phát không chỉ là kết quả của sự vận động hay/và quản lý điều hành thị trường giá cả, mà còn là hệ quả tất yếu của các chính sách kinh tế vĩ mô, trong đó nổi bật là chính sách tiền tệ.

Việt Nam vẫn quan tâm tới lạm phát giá cả hơn hẳn lạm phát tiền tệ với thước đo là lạm phát cơ bản.

Lạm phát cơ bản tháng 12/2019 tăng 0,68% so với tháng trước và tăng 2,78% so với cùng kỳ năm trước, bình quân năm 2019 tăng 2,01% so với bình quân năm 2018. Sang tháng 2/2020, lạm phát cơ bản tiếp tục tăng 0,17% so với tháng 1/2020 và tăng 2,94% so với cùng kỳ năm trước còn bình quân 2 tháng đầu năm 2020 đã tăng tới 3,1% so cùng kỳ năm trước.

Biến động lạm phát cơ bản năm 2019 cho thấy sau giai đoạn bình lặng suốt nhiều tháng, bắt đầu từ tháng 11, nhất là từ tháng 12/2019, lạm phát tiền tệ đã có dấu hiệu tăng mạnh, do đó, mọi đề xuất nới lỏng chính sách tiền tệ trong năm 2020 để kích thích tăng trưởng có thể là con dao hai lưỡi khi lạm phát tiền tệ đi đôi với lạm phát giá cả như thịt lợn chẳng hạn có thể gây ra nguy cơ mất kiểm soát lạm phát, đánh mất những gì đã đạt được trong những năm 2018 - 2019 nhờ duy trì chính sách tiền tệ chủ động và thận trọng nhằm kiểm soát lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô.

Suốt 9 tháng đầu năm 2019, mặt bằng lãi suất huy động và cho vay đều cơ bản ổn định với tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán và tổng tín dụng đều thấp hơn so với năm 2018 nhưng lại đảo chiều vào quý IV/2019 khi đến 20/12/2019, tổng phương tiện thanh toán tăng lại 12,1% so với cuối năm 2018 (cùng kỳ năm 2018 tăng 11,3%); huy động vốn của các tổ chức tín dụng tăng 12,5% (cùng kỳ năm 2018 tăng 11,5%), ngoại trừ tín dụng của nền kinh tế tăng vẻn vẹn 12,1% (cùng kỳ năm 2018 tăng 13,3%).

Rõ ràng, chính sách tiền tệ - tín dụng thận trọng đã góp phần rất tích cực vào kiểm soát lạm phát năm 2019.

Đầu tháng 3/2020, gói hỗ trợ có trị giá lên tới trên 300.000 tỷ đồng (285.000 tỷ đồng hỗ trợ tín dụng ngân hàng và 30.000 tỷ đồng hỗ trợ thuế) là chưa từng có từ trước tới nay. Về tính chất, gói hỗ trợ khổng lồ này không phải là kích cầu như gói kích thích kinh tế 2009 - 2010 nhưng những bài học đắt giá 10 năm trước rất cần thiết cho gói hỗ trợ lần này, đặc biệt là bài học về hỗ trợ đúng đối tượng và tránh thất thoát, tham nhũng.

Trước hết, nguyên nhân phải có gói hỗ trợ là do ảnh hưởng dịch Covid-19 khiến cho chuỗi cung ứng bị đứt ở mắt xích Trung Quốc trong khi có không ít lĩnh vực sản xuất - kinh doanh của Việt Nam phụ thuộc tới 70 - 80% nguồn nguyên liệu từ Trung Quốc. Đây là cú sốc cung vô tiền khoáng hậu.

Thứ hai, do ảnh hưởng của dịch Covid-19, thị trường du lịch lao dốc không phanh, hơn nữa những quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề nhất của dịch lại là những thị trường du lịch hàng đầu của Việt Nam. Ngành du lịch chịu tác động nặng nề nhất và kéo theo hàng loạt lĩnh vực liên quan như vận tải hành khách, dịch vụ ăn uống ngoài gia đình, vui chơi giải trí...

Thứ ba, tiếp sau cú sốc cung là cú sốc cầu khi thị trường xuất khẩu của Việt Nam bị thu hẹp trong lúc xuất khẩu chiếm tới 100% GDP và 70% do các doanh ngiệp FDI cung cấp. Đến lượt mình, hầu hết các doanh nghiệp FDI lại nằm trong chuỗi giá trị toàn cầu vốn đang gián đoạn nghiêm trọng.

Thứ tư, do dịch nên niềm tin tiêu dùng sụt giảm đi đôi với hiện tượng thất nghiệp tạm thời và giảm sút thu nhập nên thị trường tiêu dùng trong nước co lại. Những doanh nghiệp trực tiếp chịu tác động của dịch gặp khó khăn kéo theo các doanh nghiệp là đối tác, bạn hàng cũng khó khăn hơn.

Vì vậy, gói hỗ trợ là cần thiết nhưng phải đúng đối tượng và dựa trên nguyên tắc thị trường. Các hỗ trợ tài chính như giãn, hoãn trả nợ ngân hàng và nộp thuế nên dành cho các doanh nghiệp gặp khó khăn tạm thời có khả năng phục hồi sau khi dịch đi qua.

Sự hỗ trợ chỉ là tạm thời, không phải cho không hay xóa nợ hoàn toàn. Hỗ trợ này giúp doanh nghiệp giảm nhẹ gánh nặng nghĩa vụ tài chính, duy trì sự tồn tại chờ phục hồi. Quan trọng hơn là gói hỗ trợ tín dụng lãi suất thấp khác hẳn gói hỗ trợ 4%/năm lãi suất năm 2009 ở chỗ không có nguồn gốc ngân sách nhà nước và không do cơ quan nhà nước quản lý, điều hành, mà do các ngân hàng thương mại chủ động quản lý và thực hiện. Vì vậy, phải căn cứ vào thị trường.

Đối tượng hỗ trợ tín dụng trước hết là doanh nghiệp có thể sớm giúp nối lại chuỗi cung ứng, thay thế mắt xích bị đứt. Tiếp theo là doanh nghiệp giúp khai thác thị trường tiêu thụ sản phẩm, cả trong và ngoài nước. Ngoài ra là doanh nghiệp có thể duy trì cả yếu tố đầu vào và đầu ra, song gặp khó khăn về vốn.

Ngân hàng thương mại và thị trường tài chính phải giám sát để dòng vốn rẻ này không đổ vào bất động sản hay chứng khoán như trường hợp gói kích thích 2009. Hơn nữa, ngân hàng thương mại tự quyết định và tự chịu trách nhiệm về giải ngân gói hỗ trợ, chứ Chính phủ không can thiệp và càng không bảo lãnh “ngầm” như hồi 2009 - 2010.

Tóm lại, chính sách tiền tệ - tín dụng năm 2020 vẫn phải là ưu tiên ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát; đồng thời, hướng dòng vốn tín dụng hỗ trợ vào đúng đối tượng, đúng nhu cầu nhằm giải quyết đúng những vấn đề mà doanh nghiệp phải đối mặt do tác động của dịch Covid-19. Theo đó, các biện pháp giãn, hoãn thuế, phí và nợ nhằm hỗ trợ doanh nghiệp giảm gánh nặng tài chính quan trọng hơn nhiều so với cắt giảm lãi suất hay/và phá giá VND.

Tin bài liên quan