Ông Herbert Cochran, Giám đốc Liên minh Thuận lợi hóa thương mại Việt Nam cho rằng, việc thường xuyên thay đổi chính sách và quy định pháp lý có thể khiến môi trường kinh doanh tại Việt Nam trở nên kém hấp dẫn trong mắt các nhà đầu tư nước ngoài. Theo chuyên gia này, đó là điều bất lợi, ảnh hưởng đến thu hút đầu tư của Việt Nam, bởi nhà đầu tư nước ngoài luôn muốn chọn một điểm đến ổn định.
“Khi đưa ra quyết định đầu tư hoặc mở rộng việc đầu tư tại một quốc gia, nhà đầu tư nước ngoài thường xây dựng một kế hoạch kinh doanh dài hạn trong vòng 5-10 năm để ước tính lợi nhuận thu được. Tuy nhiên, những thay đổi trong chính sách thuế sẽ khiến toàn bộ kế hoạch này sụp đổ do chi phí bị đội lên, làm giảm doanh thu, giảm tỷ suất lợi nhuận, khiến thời gian thu hồi vốn bị kéo dài…”, ông Cochran nêu ví dụ.
Phân tích hệ lụy từ đề xuất tăng thuế giá trị gia tăng từ 10% lên 12% và áp thuế tiêu thụ đặc biệt 10% đối với mặt hàng nước ngọt mà Bộ Tài chính đưa ra gần đây, ông Herbert Cochran cho rằng, điều này không chỉ tác động tiêu cực đối với các nhà đầu tư trong ngành công nghiệp nước giải khát, mà còn ảnh hưởng xấu với cả người tiêu dùng, vì khi đó, người tiều dùng sẽ phải chịu giá bán cao.
Tương tự, ông Adam Sitkoff, Giám đốc điều hành Hiệp hội Thương mại Hoa Kỳ (AmCham) tại Hà Nội cho rằng, đang có những thay đổi bất hợp lý tại Dự thảo Luật An ninh mạng, hay một số quy định mới trong Luật Dược sẽ làm khó doanh nghiệp nếu được đưa vào áp dụng.
Theo đại diện AmCham, trên thế giới, việc áp dụng thuế tiêu thụ đặc biệt đối với nước ngọt là rất hạn chế và không được khuyến khích. Hầu hết các quốc gia không đánh thuế đối với mặt hàng này, bởi nó tác động xấu đến nền kinh tế và chưa được minh chứng là “đánh thuế để bảo vệ sức khỏe”.
“Các chính sách nếu không phù hợp với thực tiễn và thông lệ quốc tế sẽ tạo ra nhiều khó khăn cho hoạt động sản xuất-kinh doanh của doanh nghiệp, ảnh hưởng đến niềm tin của nhà đầu tư tới môi trường kinh doanh. Các chính sách của Việt Nam cần được thiết kế thống nhất và đảm bảo thực thi công bằng. Điều này sẽ giúp Việt Nam vừa cải thiện được niềm tin của người tiêu dùng vừa tạo điều kiện thu hút được dòng vốn đầu tư chất lượng cao, đẩy mạnh sự phát triển của kinh tế tư nhân…” ông Sitkoff phân tích.
Đồng tình với những ý kiến trên, GS-TS. Nguyễn Mại - Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp đầu tư nước ngoài cho rằng, tính ổn định của pháp luật vẫn là mối quan ngại lớn nhất của các nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam hiện nay.
“Điển hình là các luật thuế thay đổi liên tục và quá nhanh, khiến doanh nghiệp trở tay không kịp, thủ tục hải quan tuy đã cải tiến, nhưng vẫn còn mất khá nhiều thời gian so với các nước trong cùng khu vực…”, ông Mại nói.
Để cải thiện tình trạng này, GS-TS. Nguyễn Mại cho rằng, Việt Nam cần hình thành định hướng và chính sách mới về thu hút vốn FDI một cách ổn định, nhất quán và đồng bộ.
“Thay đổi chính sách cần phải đảm bảo tính công bằng, minh bạch, ổn định, có độ trễ nhất định về thời gian thi hành để nhà đầu tư và doanh nghiệp chủ động trong điều hành chiến lược kinh doanh. Việc xây dựng hệ thống văn bản pháp quy từ luật, nghị định của Chính phủ, đến thông tư hướng dẫn của các bộ phải đồng nhất, có thống nhất tiếp thu góp ý của các đối tượng trực tiếp chịu sự điều chỉnh để đảm bảo có thể thực thi, đồng thời các văn bản pháp lý cần được ban hành một thời gian đủ dài để doanh nghiệp chuẩn bị điều kiện thi hành”, ông Mại góp ý.
Bên cạnh đó, GS-TS. Nguyễn Mại cũng nhấn mạnh, cần coi trọng các ngành nghề thu hút nhiều lao động, những địa phương kém phát triển thì cần ưu tiên thu hút FDI ở một số ngành và sản phẩm công nghệ cao, tạo ra giá trị gia tăng lớn như công nghệ thông tin, điện tử, trí tuệ nhân tạo...
Đồng thời, điều chỉnh chính sách ưu đãi đối với dự án FDI theo hướng gắn với hiệu quả kinh tế - xã hội của quá trình phát triển từng vùng kinh tế, địa phương. Mặt khác, chính sách kết nối doanh nghiệp FDI với doanh nghiệp trong nước cần chú trọng để khắc phục nhược điểm tác động lan toả của doanh nghiệp FDI; phát triển công nghiệp hỗ trợ, tham gia chuỗi cung ứng giá trị toàn cầu…