TS. Vũ Thành Tự Anh, Giảng viên cao cấp, Trường Chính sách công và Quản lý Fulbright. Ảnh: Trọng Tín

TS. Vũ Thành Tự Anh, Giảng viên cao cấp, Trường Chính sách công và Quản lý Fulbright. Ảnh: Trọng Tín

Cần giao KPI tăng trưởng kinh tế tư nhân cho từng địa phương

0:00 / 0:00
0:00
Bên cạnh KPI về tăng trưởng GDP, TS. Vũ Thành Tự Anh cho rằng, phải có KPI về tăng trưởng kinh tế tư nhân. Nhưng không chỉ về số lượng, mà còn về quy mô, lượng vốn, tốc độ tăng trưởng năng suất.

Trao đổi với phóng viên Báo điện tử Đầu tư, TS. Vũ Thành Tự Anh, Giảng viên cao cấp, Trường Chính sách công và Quản lý Fulbright đánh giá chủ trương phát triển kinh tế tư nhân là hoàn toàn đúng. Bởi đây là khu vực kinh tế tư nhân đóng góp cao nhất cho tăng trưởng kinh tế của Việt Nam.

Câu hỏi đặt ra là, tại sao chúng ta đã nói về việc thúc đẩy kinh tế tư nhân phát triển từ lâu, nhưng đến thời điểm này, kết quả vẫn chưa đạt được như mong muốn. Trong vòng 15 năm trở lại đây, tỷ lệ đóng góp của khu vực kinh tế tư nhân giữ nguyên ở mức độ khoảng 50%. Rõ ràng là tốc độ tăng trưởng của kinh tế tư nhân không tăng cao hơn mức trung bình của cả nước.

Thưa ông, chúng ta đang nói kinh tế tư nhân được xem là động lực tăng trưởng quan trọng, nhưng ngay trong phần trình bày của ông về Báo cáo kinh tế thường niên ĐBSCL 2024, đã chỉ ra một thực tế là tỷ trọng vốn đầu tư tư nhân vào Vùng giảm từ 14,9% của cả nước xuống chỉ còn 12,4% trong vòng 10 năm. Vậy, từ thực tế của ĐBSCL, làm sao để cải thiện chỉ số này?

Nếu tính trên bình quân đầu người, đầu tư của ĐBSCL đứng thứ ba về ODA, thứ tư về đầu tư công, thứ năm về đầu tư FDI, và thứ sáu về đầu tư tư nhân. Trong khi đó, đầu tư tư nhân và FDI là hai trụ cột và động lực tăng trưởng quan trọng nhất của Vùng. Đây là vấn đề mà báo cáo nêu lên như một điểm nghẽn phát triển và là căn nguyên của vòng xoáy đi xuống ở ĐBSCL.

Do vậy, cái quan trọng nhất là phải phá vỡ các mắt xích của vòng xoáy đó. Mắt xích có thể phá vỡ ngay lập tức và nằm trong tầm kiểm soát của chính sách là đầu tư công. Đầu tư công của ĐBSCL đến thời điểm này chỉ chiếm khoảng 12% trong tổng đầu tư của Nhà nước, và đây là một tỷ lệ rất thấp đối với một vùng đóng góp rất nhiều cho xuất khẩu, sản xuất nông nghiệp, cũng như bảo đảm an ninh lương thực của cả nước.

Vì vậy, cần phải có một tỷ trọng đầu tư phù hợp hơn, tương xứng với tiềm năng, vai trò, vị trí và đóng góp của vùng cho cả nước.

Khi có được một mức độ đầu tư công lớn hơn, phải xác định ưu tiên cho đúng. Ưu tiên ở đây là cho các lĩnh vực đầu tư mang lại hiệu quả lan tỏa cao, ví dụ như cơ sở hạ tầng giao thông, cơ sở hạ tầng viễn thông, về chuyển đổi số, công nghệ số.

Chúng ta cũng phải ưu tiên cho những lĩnh vực đặc thù của Vùng, ví dụ nông nghiệp công nghệ cao, giống cây trồng, giống vật nuôi… những điều này sẽ giúp cho ĐBSCL đa dạng hóa hoạt động kinh tế. Mặt khác, nó cũng giúp cho ĐBSCL có nền tảng để tăng năng suất và kết nối tốt hơn với hệ thống chuỗi giá trị, cũng như kết nối trong nền kinh tế nội vùng và với thế giới.

Còn với chính quyền địa phương, việc đầu tiên hiển nhiên nhất là cải thiện môi trường kinh doanh, điều này hoàn toàn nằm trong thẩm quyền và khả năng của họ. Nếu chúng ta đã nghèo, ít vốn mà môi trường kinh doanh không tốt hơn các tỉnh khác, thì người ta sẽ không đến đầu tư. Đó là một logic rất hiển nhiên. Vì vậy, quan trọng nhất vẫn là cải thiện khả năng tiếp cận tín dụng và đất đai. Giảm bớt các chi phí tuân thủ pháp luật, giảm bớt các rào cản hành chính.

Nhưng một điều quan trọng mà tôi nghĩ ít khi được đề cập, rất đặc thù của ĐBSCL là tín dụng. Chính sách tín dụng ở đây cũng phải khác với tín dụng của các khu vực khác. Bởi, sản xuất nông nghiệp có chu kỳ riêng, có những rủi ro riêng và những đặc thù riêng.

Vì vậy, cần có sản phẩm tín dụng cũng như bảo hiểm nông nghiệp có tính đặc thù phù hợp với ĐBSCL, không thể áp dụng một cách chung như ở Đồng bằng sông Hồng hay Đông Nam Bộ. Điều đó cho thấy cần phải có sự phối hợp giữa nhà nước và các tổ chức tài chính, ngân hàng, tín dụng để từ đó thiết kế một sản phẩm phù hợp.

Cuối cùng, vai trò của doanh nghiệp và các hiệp hội doanh nghiệp là rất quan trọng. Doanh nghiệp phải tự tin rằng trong vòng năm đến mười năm tới, không ai có thể thay thế được họ, không ai có thể thay thế được đầu tư tư nhân trở thành động lực tăng trưởng quan trọng nhất của ĐBSCL.

Chỉ khi nào chúng ta huy động được sức sáng tạo đó, tạo ra một hệ sinh thái khởi nghiệp và một môi trường kinh doanh hấp dẫn, không bị làm phiền. Làm thế nào để các hộ kinh doanh cá thể mà chiếm 43% kinh tế của đồng bằng sông Cửu Long, trở thành doanh nghiệp thực sự đóng góp cho nền kinh tế, từ đó tăng quy mô, tăng năng suất và kết nối với nền kinh tế trong nước cũng như quốc tế. Khi đó, ĐBSCL sẽ có tương lai.

Đó là góc độ của Vùng, còn nhìn rộng hơn, đâu là những quyết sách có thể đưa kinh tế tư nhân trở thành động lực quan trọng của nền kinh tế? thưa ông?

Điều đầu tiên là phải dỡ bỏ các rào cản về tiếp cận đất đai, tiếp cận tín dụng, các thủ tục hành chính phiền hà, mất thời gian. Ví dụ, để thành lập một doanh nghiệp, chúng ta cần rất nhiều giấy phép, rất nhiều con dấu và mất rất nhiều thời gian. Vậy tại sao chúng ta không làm điều đó nhẹ nhàng bớt đi? Giảm chi phí tuân thủ và chi phí kinh doanh cho doanh nghiệp, đó là bước đầu tiên.

Doanh nghiệp trước khi nghĩ đến chuyện nhà nước ưu ái họ cái gì, thì những cản trở họ phải được dỡ bỏ.

Thứ hai, sau khi đã tháo gỡ hết các ràng buộc, cần phải tạo ra những cơ chế khuyến khích. Vậy cái gì sẽ giúp doanh nghiệp bây giờ? Đầu tiên là cơ chế tín dụng, cần thiết kế các gói tín dụng phù hợp với nhu cầu của các loại doanh nghiệp khác nhau. Doanh nghiệp công nghiệp sẽ có những nhu cầu khác, doanh nghiệp nông nghiệp, doanh nghiệp khởi nghiệp, và doanh nghiệp công nghệ… mỗi nhóm doanh nghiệp lại có nhu cầu riêng.

Chúng ta cũng cần tìm cách để các doanh nghiệp áp dụng khoa học công nghệ, do đó sẽ cần có những trung tâm hỗ trợ như chuyển đổi số, các trung tâm hỗ trợ về việc tích hợp các công cụ mới như AI, trí tuệ nhân tạo và blockchain.. vào hoạt động của họ trong các lĩnh vực.

Vấn đề thứ ba là chất liệu nuôi dưỡng doanh nghiệp trên thị trường. Cần tạo cơ hội cho nhiều doanh nghiệp tham gia vào các dự án đầu tư công hay tham gia vào các chương trình lớn của đất nước, chứ không phải chỉ dành riêng cho một nhóm doanh nghiệp nào đó.

Cuối cùng là đứng từ góc độ quản lý nhà nước. Việc phát triển doanh nghiệp tư nhân không chỉ nằm ở chiến lược của Chính phủ, của Bộ Tài chính, của các bộ, ngành liên quan, mà phải đi đến địa phương, phải trở thành KPI của lãnh đạo địa phương.

Chẳng hạn, một địa phương được giao chỉ tiêu tăng trưởng 8% trong năm 2025, thì tốc độ tăng trưởng doanh nghiệp tư nhân phải cao hơn 8%. Như vậy mới trở thành động lực tăng trưởng quan trọng nhất được.

Bên cạnh KPI về tăng trưởng GDP, thì phải có KPI về tăng trưởng kinh tế tư nhân. Nhưng không chỉ về số lượng mà còn về quy mô, về lượng vốn, về tốc độ tăng trưởng năng suất, và cả đóng góp trong GDP. Bởi, nếu chỉ là số lượng, họ có thể tăng trưởng số lượng rất nhiều, nhưng toàn những doanh nghiệp "li ti", và năm sau có thể những doanh nghiệp đó lại ra đi.

Trở lại với Vùng ĐBSCL, có đến 43% kinh tế tư nhân của vùng này đến từ hộ kinh doanh cá thể. Trong khi đó, trung bình một doanh nghiệp chỉ có 7,5 người lao động, đang cho thấy quy mô rất nhỏ. Vậy, làm sao để khối doanh nghiệp này lớn được?

Đó là một đặc trưng đáng buồn của ĐBSCL, khi trong số các doanh nghiệp mới thành lập, quy mô trung bình chỉ có 7,5 lao động. Với quy mô như vậy, chúng không còn là doanh nghiệp nhỏ nữa mà là siêu nhỏ. Điều này cho thấy sức hấp dẫn và khả năng thu hút doanh nghiệp của ĐBSCL đang bị hạn chế.

Chúng ta đang tương đối mạnh về số lượng. Chẳng hạn năm 2024, ĐBSCL có tốc độ tăng trưởng doanh nghiệp cao nhất cả nước, đạt 5%. Tuy nhiên, chúng ta lại gặp hạn chế về chất lượng. Vì vậy, bây giờ phải quan tâm đến cả bài toán số lượng, nhưng quan trọng hơn là bài toán chất lượng. Làm sao để quy mô của doanh nghiệp này lớn lên, làm sao để quy mô vốn của họ phải cao hơn, và làm sao để năng suất của họ phải tăng trưởng tốt hơn. Làm sao mức độ áp dụng khoa học công nghệ cũng như chuyển đổi số ngày càng tốt lên.

Tuy nhiên, bản thân một doanh nghiệp với quy mô đó không thể làm nổi mà phải có sự đồng hành và hỗ trợ của chính quyền địa phương. Chẳng hạn, cần hình thành các trung tâm hỗ trợ chuyển đổi số, hình thành các hoạt động tư vấn giúp cho các doanh nghiệp, đặc biệt là những doanh nghiệp nhỏ và vừa, muốn tiếp cận việc chuyển đổi số và bán hàng online.

Các doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ cũng cần tiếp cận với thị trường quốc tế để nhận được những hỗ trợ cần thiết, tất nhiên cần có sự đồng hành của chính quyền địa phương, hiệp hội doanh nghiệp, các trường đại học, của các viện nghiên cứu và bản thân của từng doanh nghiệp.

Để vỗ tay thì cần phải có hai bàn tay. Do vậy, cần khối tư nhân và nhà nước hợp tác với nhau trong một bối cảnh rộng lớn, nhằm giúp cho các doanh nghiệp ở ĐBSCL nâng cấp và hiện đại hóa.

Đồng thời, cần gắn với nền kinh tế bản địa, làm sao để bật được cái đặc trưng bản địa của mình như sinh thái, nông nghiệp xanh, một môi trường thân thiện, sự bền vững kể cả về mặt kinh tế và tài nguyên, xã hội. Đó mới là thế mạnh cốt lõi, mang cái đó để cống hiến cho đất nước, cống hiến cho nhân loại, cống hiến cho thế giới thì sức mạnh đó mới bền vững.

Tin bài liên quan