Chủ nhiệm Uỷ ban Kinh tế Vũ Hồng Thanh phát biểu khai mạc phiên họp .
Phát biểu khai mạc, Chủ nhiệm Uỷ ban Kinh tế Vũ Hồng Thanh nêu sự cần thiết phải sửa đổi toàn diện dự án Luật Dầu khí, trong đó có những khó khăn bất cập như số lượng hợp đồng dầu khí mới được ký kết gần đây giảm mạnh, từ năm 2019 đến nay không có hợp đồng dầu khí nào được ký. Xung đột Nga - Ucraina khiến cho giá dầu hết sức phức tạp, tiềm ẩn khá nhiều rủi ro...
Theo Chủ nhiệm Uỷ ban Kinh tế, bối cảnh mới đòi hỏi có cách nhìn mới, tạo ra cơ chế chính sách đồng bộ, tăng cường phân cấp phân định trách nhiệm, tăng cường quản lý nhà nước và tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư.
Quốc hội đã quyế định đưa dự án Luật này vào chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2022, Uỷ ban Kinh tế chủ trì thẩm tra, trình Uỷ ban Thường vụ Quốc hội xem xét sau đó trình Quốc hội tại kỳ họp kỳ ba, nếu bảo đảm chất lượng sẽ thông qua tại kỳ họp thứ tư, ông Thanh thông tin.
Sẽ giải quyết 6 nhóm chính sách
Trình bày tờ trình dự án Luật, Thứ trưởng Bộ Công thương Nguyễn Sinh Nhật Tân nêu rõ, Luật Dầu khí hiện hành và các văn bản quy phạm dưới Luật mặc dù về cơ bản đảm bảo quyền và trách nhiệm của nước chủ nhà và nhà đầu tư, tiệm cận với thông lệ dầu khí quốc tế, tuy nhiên thời gian qua đã phát sinh một số vướng mắc, bất cập cần được nghiên cứu hoàn thiện.
Hơn nữa, bối cảnh quốc tế và trong nước đã có nhiều thay đổi, tác động lớn đến sự phát triển của ngành dầu khí. Tình hình Biển Đông tiếp tục diễn biến phức tạp, căng thẳng và mất ổn định hơn, đưa đến nhiều khó khăn, thách thức mới đối với hoạt động tìm kiếm, thăm dò và khai thác dầu khí trên Biển Đông của Việt Nam.
việc xây dựng Luật Dầu khí (sửa đổi), theo Chính phủ là hết sức cần thiết, nhằm tăng cường hiệu quả, hiệu lực trong quản lý nhà nước, loại bỏ rào cản, tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho nhà đầu tư, góp phần cải thiện mức độ hấp dẫn của môi trường đầu tư trong lĩnh vực dầu khí.
Luật Dầu khí (sửa đổi) gồm 9 Chương, 56 điều kế thừa các điều khoản cơ bản của của Luật dầu khí hiện hành, bảo đảm tính ổn định, liên tục của các Hợp đồng dầu khí, Hiệp định đã ký kết (đang có hiệu lực), ông Tân cho biết.
Lần sửa đổi này sẽ giải quyết 6 nhóm chính sách, thứ nhất là bổ sung và hoàn thiện các quy định liên quan đến hợp đồng dầu khí.
Thứ hai, quy định về điều tra cơ bản và dầu khí và trình tự, phê duyệt các bước triển khai hoạt động dầu khí, dự án dầu khí gồm các giai đoạn tìm kiếm thăm dò và khai thác dầu khí phù hợp với đặc thù của hoạt động dầu khí (mà pháp luật về đầu tư chưa có quy định) và đặc thù của PVN/doanh nghiệp 100% vốn của PVN.
Thứ ba, quy định khung cho việc thực hiện dự án dầu khí theo chuỗi từ tìm kiếm thăm dò, khai thác, vận chuyển, xử lý, chế biến dầu khí.
Thứ tư là nhóm chính sách về ưu đãi đầu tư và ưu đãi đầu tư đặc biệt đối với dự án dầu khí theo lô dầu khí thông qua hợp đồng dầu khí (bao gồm các chính sách ưu đãi thuế, thu hồi chi phí).
Thứ 5 là chính sách quy định về công tác kế toán, kiểm toán, quyết toán và xử lý chi phí trong hoạt động dầu khí, bổ sung quy định nguyên tắc về công tác kế toán, kiểm toán đối với hoạt động dầu khí, cụ thể:công tác kế toán, kiểm toán đối với hợp đồng dầu khí tuân thủ với pháp luật kế toán, kiểm toán Việt Nam và phù hợp với thông lệ công nghiệp dầu khí quốc tế.
Thứ sáu là chính sách quy định khung việc cho phép bên thứ ba tiếp cận các cơ sở hạ tầng có sẵn của ngành dầu khí và nghĩa vụ chia sẻ công trình dầu khí, cơ sở hạ tầng sẵn có nhằm sử dụng tối ưu, hiệu quả hệ thống hạ tầng cơ sở sẵn có, tránh lãng phí trong đầu tư.
Xây dựng chính sách ưu đãi đầu tư phù hợp bối cảnh mới
Tại tờ trình, Chính phủ cho biết, Việt Nam đang đứng trước một thực tế là số lượng hợp đồng dầu khí mới được ký kết gần đây giảm mạnh (từ năm 2015 đến năm 2019 mỗi năm chỉ có 1 hợp đồng dầu khí được ký; năm 2020 và năm 2021 không có hợp đồng dầu khí nào được ký). Nguyên nhân khách quan là các phát hiện mới ở Việt Nam trong thời gian qua phần lớn có trữ lượng nhỏ, các diện tích mở còn lại đều được đánh giá có tiềm năng ở mức hạn chế, chủ yếu là khí, tập trung ở khu vực thuộc đối tượng của chính sách khuyến khích đầu tư theo quy định của Luật Dầu khí.
Bởi vậy, việc đánh giá đúng hiện trạng của các điều khoản kinh tế - thương mại của hợp đồng dầu khí và hệ thống các văn bản pháp lý so với các nước trong khu vực là hết sức cần thiết để xây dựng được chính sách ưu đãi đầu tư phù hợp với bối cảnh hiện nay, tạo ra lợi thế cạnh tranh cho lĩnh vực hoạt động dầu khí của Việt Nam so với các nước khác trong khu vực.
Trên cơ sở đó dự thảo Luật quy định sửa đổi, bổ sung quy định về nguyên tắc xác định các lô dầu khí được hưởng các chính sách ưu đãi đầu tư và ưu đãi đầu tư đặc biệt.
Đối với các lô dầu khí được hưởng chính sách ưu đãi đầu tư, giữ nguyên các mức ưu đãi theo quy định hiện hành, cụ thể giữ nguyên mức thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp là 32% và thuế suất thuế xuất khẩu dầu thô là 10%, tỷ lệ thu hồi chi phí là 70% sản lượng dầu khí khai thác được trong năm.
Đối với các lô dầu khí được hưởng chính sách ưu đãi đầu tư đặc biệt, dự thảo Luật quy định mức ưu đãi thấp hơn để thu hút đầu tư vào hoạt động dầu khí, cụ thể: mức thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp là 25% (Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp hiện hành chưa quy định mức thuế suất này), thuế suất thuế xuất khẩu dầu thô là 5% (nằm trong khung thuế suất thuế xuất khẩu theo quy định) và mức thu hồi chi phí tối đa 80% sản lượng dầu khí khai thác được trong năm.
Điểm mới trong dự thảo Luật, theo Thứ trưởng Tân là mức thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp 25% và mức thu hồi chi phí tối đa 80% áp dụng đối với lô dầu khí được hưởng chính sách ưu đãi đầu tư đặc biệt. Nội dung này được đề xuất trên cơ sở nghiên cứu, tham khảo chính sách của một số nước trong khu vực có hoạt động dầu khí tương đồng với Việt Nam. Cụ thể: mức thuế suất ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp của Thái Lan là 20%, Malaysia 25%, Trung Quốc 25%, Myanmar 30%; mức thu hồi chi phí (tối đa) của Malaysia là 75%, Indonesia 90%.
Đối với mức thuế suất ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp (25%) áp dụng cho hợp đồng dầu khí của lô dầu khí được hưởng chính sách ưu đãi đầu tư đặc biệt, để có thể áp dụng được ngay sau khi Luật Dầu khí (sửa đổi) có hiệu lực, tại Điều 54 dự thảo Luật quy định việc sửa đổi khoản 2 Điều 10 Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp số 14/2008/QH12, theo đó: “Thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp đối với hoạt động tìm kiếm, thăm dò, khai thác dầu khí khí từ 25% đến 50% và tài nguyên quý hiếm khác từ 32% đến 50% phù hợp với từng dự án, từng cơ sở kinh doanh”.
Sau khi nghe tờ trình, Uỷ ban Kinh tế và các vị đại biểu dự họp sẽ tiến hành thẩm tra dự án Luật Dầu khí (sửa đổi).