Bị cáo Nguyễn Phương Anh, cựu Phó tổng giám đốc Công ty cổ phần Tập đoàn Sài Gòn Peninsula.
Là người đầu tiên được xét hỏi, bị cáo Nguyễn Phương Anh, Phó tổng giám đốc Công ty cổ phần Tập đoàn Sài Gòn Peninsula (Công ty SPG - thuộc Tập đoàn Vạn Thịnh Phát) khai, bị cáo trực tiếp quản lý 3 công ty chuyển ra nước ngoài: Blue Pearl, Sài Gòn Peninsula và Easter View. Trong đó, Công ty Sài Gòn Peninsula có hoạt động, là chủ đầu tư của dự Sài Gòn Peninsula, 2 công ty còn lại không hoạt động.
Ngoài quản lý trực tiếp 3 công ty trên, khi có chỉ đạo từ Trương Khánh Hoàng (cựu Tổng giám đốc SCB) chạy dòng tiền cho những công ty khác thì Nguyễn Phương Anh sẽ thực hiện theo yêu cầu.
Khi thực hiện việc chuyển tiền ra nước ngoài, Nguyễn Phương Anh sẽ thực hiện theo hợp đồng tư vấn dịch vụ và mua bán hợp đồng, các hợp đồng này không phát sinh quan hệ giao dịch.
Theo Nguyễn Phương Anh, các hợp đồng đã được Chiu Bing Keung Kenneth (luật sư, bạn của Trương Mỹ Lan ở nước ngoài) soạn sẵn, trong hồ sơ đã chỉ định chọn Công ty Sài Gòn Peninsula.
“Chị Trương Mỹ Lan nói phối hợp với anh Chiu Bing Keung Kenneth để chuyển tiền, sau đó bị cáo làm việc với anh Chiu. Nếu thủ tục thiếu hồ sơ theo yêu cầu, thì bị cáo sẽ báo lại với anh Trương Khánh Hoàng để xem xét thực hiện”, Nguyễn Phương Anh khai.
Khi dòng tiền đã chuyển về Công ty Sài Gòn Peninsula, Nguyễn Phương Anh làm theo sự chỉ đạo của Trương Khánh Hoàng. Bị cáo cho rằng, Trương Khánh Hoàng cũng làm theo chỉ đạo của Trương Mỹ Lan. Sau khi chuyển tiền thành công, bị cáo sẽ báo cho Trương Khánh Hoàng biết hoàn tất việc chuyển tiền.
“Khi thực hiện hành vi, bị cáo không nhận thức được vi phạm pháp luật, sau khi làm việc với cơ quan điều tra thì nhận thức được việc làm của mình đã vi phạm pháp luật nên rất ăn năn. Bị cáo chỉ làm công ăn lương, không hưởng lợi gì nên mong HĐXX xem xét”, bị cáo Phương Anh trình bày.
Hội đồng xét xử tiếp tục xét hỏi, bị cáo Trịnh Quang Công (nguyên Tổng giám đốc Công ty cổ phần Tập đoàn quản lý Acumen - thuộc Tập đoàn Vạn Thịnh Phát) cho rằng, bản thân phụ trách 7 công ty, gồm: Công ty Golden Hill, Công ty VinaLand, Công ty Capitaland Tower, Công ty Tradewind, Công ty Eland, Công ty Đông Sài Gòn, Công ty Thành Hiếu).
Những công ty này là chủ đầu tư các dự án tại TP.HCM và Long An và được Trương Khánh Hoàng giao nhiệm vụ quản lý. Từ tháng 7/2020 - 10/2022, Trịnh Quang Công được Trương Khánh Hoàng giao theo dõi, quản lý việc chuyển tiền, nhận tiền từ nước ngoài chuyển về của 7 Công ty.
Theo Trịnh Quang Công, những khoản tiền chuyển đi nước ngoài đều nhằm mục đích trả nợ. Dòng tiền, lệnh chuyển tiền ở 7 công ty, Công quản lý đều do Trương Khánh Hoàng phê duyệt. Khi Trương Khánh Hoàng nghỉ việc thì nhận chỉ đạo trực tiếp từ Trương Mỹ Lan thực hiện các công việc trước đó.
Những bị cáo còn lại thuộc lãnh đạo SCB, các công ty thuộc hệ sinh thái của Tập đoàn Vạn Thịnh Phát như: Tô Thị Anh Đào (cựu Phó tổng giám đốc Công ty cổ phần Tập đoàn Đầu tư Vạn Thịnh Phát), Nguyễn Vũ Anh Thi (Tổng giám đốc Công ty cổ phần Tập đoàn Phát triển Hạ tầng và Bất động sản Việt Nam - VIPD), Bùi Anh Dũng (cựu Chủ tịch HĐQT SCB), Trương Khánh Hoàng... khai việc ký duyệt các hồ sơ để chuyển tiền ra nước ngoài và nhận tiền từ nước ngoài về Việt Nam đều qua sự chỉ đạo của bà Trương Mỹ Lan.
Về các thủ tục, điều kiện để chuyển tiền ra nước ngoài và nhận tiền từ nước ngoài về Việt Nam, các bị cáo khai, do tin tưởng thuộc cấp nên khi nhận hồ sơ từ dưới gửi lên thì ký duyệt, không biết đây là các hợp đồng khống, trái quy định pháp luật, mà việc này sau khi làm việc với cơ quan điều tra mới biết sai.
Theo cáo buộc, thực hiện sự chỉ đạo của Trương Mỹ Lan, theo từng giai đoạn khác nhau, trong thời gian từ ngày 7/3/2018 - 1/8/2022, Nguyễn Phương Anh phối hợp với Nguyễn Phương Hồng, Trương Khánh Hoàng, Trần Thị Mỹ Dung lập các hợp đồng “khống” cho 3 công ty do Nguyễn Phương Anh quản lý đã nhận về 35 triệu USD tương đương hơn 802 tỷ đồng và chuyển tiền đi nước ngoài gần 57 triệu USD, tương đương hơn 1.335 tỷ đồng.
Nguyễn Phương Anh đã cùng đồng phạm thực hiện vận chuyển trái phép tiền tệ qua biên giới gần 92 triệu USD, tương đương hơn 2.138 tỷ đồng.
Đối với Trịnh Quang Công, từ tháng 7/2020 - 10/2022, Công đã cùng đồng phạm thực hiện chuyển tiền ra nước ngoài hơn 1.444 triệu USD, tương đương hơn 33.547 tỷ đồng và nhận tiền từ nước ngoài về hơn 1.449 triệu USD, tương đương hơn 34.629 tỷ đồng theo các hợp đồng “khống”.
Tổng số tiền Trịnh Quang Công tham gia cùng đồng phạm vận chuyển trái phép hơn 2.894 triệu USD tương đương hơn 68.177 tỷ đồng.