Ông Richard Cooper, chuyên gia của Cleary Gottlieb, một công ty luật hàng đầu về phá sản cho biết, các công ty lớn đang phá sản với tốc độ nhanh thứ hai kể từ năm 2008 đến nay.
“Cảm giác khác với những giai đoạn trước, tôi dự đoán rằng chúng ta sẽ còn chứng kiến rất nhiều vụ phá sản”, Cooper cho biết.
Viễn cảnh "quả bom" nợ doanh nghiệp tại Mỹ lên tới hơn 500 tỷ USD đã bắt đầu "phát nổ", theo dữ liệu từ Bloomberg. Con số này sẽ còn tăng lên và điều đó khiến Phố Wall ngày càng lo lắng, bởi nó có nguy cơ kéo giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế và gây căng thẳng cho thị trường tín dụng vừa mới thoát khỏi cuộc khủng hoảng lớn nhất trong nhiều thập kỷ qua.
Các ngành đang có nguy cơ vỡ nợ nhiều nhất. Nguồn: Bloomberg. |
Một lý do khiến các doanh nghiệp suy yếu là bởi yếu tố công nghệ thay đổi, xu hướng làm việc từ xa ngày càng phổ biến cũng khiến các tòa nhà văn phòng ở Hồng Kông (Trung Quốc), London và San Francisco (Mỹ) trống không.
Tuy nhiên, lý do lớn nhất có thể là do các khoản nợ tăng lên nhanh chóng trong thời đại tiền “rẻ” nhưng giờ đây chúng đang trở thành một gánh nặng lớn cho nhiều doanh nghiệp khi các ngân hàng trung ương đồng loạt tăng lãi suất và có thể giữ lãi suất ở mức cao trong thời gian dài hơn dự kiến.
Tuy nhiên, đây là hậu quả đã có thể lường trước. Bởi khi các nhà hoạch định chính sách mạnh tay rút tiền mặt khỏi hệ thống tài chính thế giới, làm chậm nền kinh tế của họ bằng cách chặn dòng tín dụng cho các doanh nghiệp thì ắt sẽ có một số doanh nghiệp sụp đổ.
“Núi” nợ của khối doanh nghiệp đã liên tục tăng lên trong những năm lãi suất ở mức thấp. Vào thời điểm đó, ngay cả những công ty đang suy yếu cũng có thể dễ dàng vay mượn để duy trì hoạt động.
Theo dữ liệu của S&P Global, tại Mỹ, số lượng trái phiếu lợi suất cao, những trái phiếu do các doanh nghiệp có rủi ro với mức độ tín nhiệm thấp phát hành, đã tăng hơn hai lần từ năm 2008, lên 3.000 tỷ USD vào năm 2021, trước khi Fed bắt đầu chu kỳ tăng lãi suất mạnh nhất từ trước đến nay.
Trong cùng giai đoạn đó, các khoản nợ tương tự của các công ty phi tài chính ở Trung Quốc cũng tăng mạnh so với quy mô nền kinh tế của nước này. Ở châu Âu, doanh số bán trái phiếu “rác” đã tăng hơn 40% chỉ riêng trong năm 2021. Rất nhiều trong số những trái phiếu đó cần phải thanh toán trong vài năm tới. Tới thời điểm hiện tại, có 785 tỷ USD trái phiếu sắp đáo hạn.
Trong bối cảnh kinh tế ở Trung Quốc và châu Âu tăng trưởng chậm lại và Fed dự kiến tiếp tục tăng lãi suất, những khoản vay đó có thể là quá sức chịu đựng đối với một số doanh nghiệp.
Dữ liệu cho thấy chỉ riêng ở châu Mỹ, lượng trái phiếu và khoản vay có vấn đề đã tăng hơn 360% kể từ năm 2021. Nếu nó tiếp tục tăng lên thì có thể dẫn đến chu kỳ vỡ nợ trên diện rộng đầu tiên kể từ cuộc Đại khủng hoảng tài chính.
Carla Matthews, Giám đốc công ty tư vấn PwC ở Anh, cho biết: “Nó giống như một sợi dây thun. Bạn có thể kéo căng tới một mức độ nhất định nhưng sẽ tới lúc nó đứt”.
Và điều đó đã bắt đầu xảy ra với hơn 120 vụ phá sản lớn chỉ riêng ở Mỹ trong năm nay. Mặc dù vậy thì quy mô các vụ vỡ nợ này vẫn chưa chiếm đến 15% trong tổng khoản nợ "có vấn đề" trị giá gần 600 tỷ USD, dữ liệu cho thấy.
Moody’s Investors Service cho biết, tỷ lệ vỡ nợ đối với những công ty bị xếp hạng "đầu cơ" trên toàn thế giới dự kiến đạt 5,1% vào năm tới, tăng từ mức 3,8% trong 12 tháng kết thúc vào tháng 6 vừa qua. Theo kịch bản bi quan nhất, con số này có thể tăng lên tới 13,7%, vượt qua con số kỷ lục ghi nhận trong cuộc khủng hoảng tín dụng năm 2008 - 2009.
Nếu tình trạng vỡ nợ gia tăng, nhiều nhà đầu tư và ngân hàng có thể giảm hoạt động cho vay, từ đó đẩy nhiều công ty vào tình trạng khó khăn khi dòng tín dụng bị siết. Các vụ phá sản cũng sẽ gây áp lực lên thị trường lao động khi người lao động bị sa thải, kéo theo đó là người dân giảm chi tiêu.