Bộ trưởng Bộ Giáo dục và đào tạo Phùng Xuân Nhạ phát biểu tại Hội nghị trực tuyến “Đối tác nghị viện về hợp tác giáo dục, văn hóa vì sự phát triển bền vững”.
"Đây là tham vọng lớn nhưng hiện giờ không phải lúc để e ngại. Áp lực của việc cần phải thay đổi toàn diện và triệt để đang lớn hơn bao giờ hết với những ảnh hưởng không thể vãn hồi của đại dịch", Bộ trưởng Bộ Giáo dục và đào tạo Phùng Xuân Nhạ phát biểu tại Hội nghị trực tuyến “Đối tác nghị viện về hợp tác giáo dục, văn hóa vì sự phát triển bền vững” (AIPAECC) diễn ra chiều 30/7, Nhà Quốc hội Việt Nam là điểm cầu chính.
"Tham vọng lớn" mà Bộ trưởng Nhạ nói đến là các nước trong khu vực cùng nhau xây dựng một nền tảng giáo dục số hóa dùng chung, giúp cho sự hiểu biết đa văn hóa của người học được nâng lên trong khi các chuẩn mực về chất lượng giáo dục vẫn được đảm bảo.
Theo Bộ trưởng, các công nghệ tiên tiến về dữ liệu lớn và trí tuệ nhân tạo trong phân tích dữ liệu cũng cần được áp dụng nhằm phục vụ công tác quản lý, giám sát, đánh giá ngành và dự báo về giáo dục đào tạo.
Làm thế nào để tăng hiệu suất giáo dục?
Trước đó, mở đầu bài phát biểu, người đứng đầu ngành giáo dục Việt Nam nhấn mạnh, trong nửa năm qua, đại dịch Covid-19 đã gây ra không ít khó khăn cho ngành giáo dục.
Trong bối cảnh toàn thế giới đối mặt với những thách thức chung, câu hỏi mà chúng ta cần đặt ra là làm thế nào để tăng hiệu suất giáo dục, và khai thác cũng như phát huy tối đa tiềm năng của nguồn nhân lực trong khu vực. Sau khi đặt vấn đề như trên, ông Nhạ nói đến hai giải pháp quan trọng: thúc đẩy chuyển đổi số và liên thông giáo dục trong khu vực.
Với chuyển đổi số trong giáo dục, Bộ trưởng Nhạ cho biết, không chỉ trong trong khi đại dịch bùng phát và lan rộng, mà trong nhiều năm qua, Việt Nam đã có những nỗ lực đáng kể nhằm thúc đẩy chuyển đổi số trong giáo dục. Bộ Giáo dục và đào tạo đã chủ động chỉ đạo, hướng dẫn nhà trường tổ chức dạy học trực tuyến và trên truyền hình và hướng dẫn công nhận kết quả dạy học trực tuyến.
"Qua những trao đổi nội khối về kinh nghiệm chuyển đổi số trong giáo dục, tôi nhận thấy chúng ta đều đang chứng kiến việc các trường học bắt đầu ứng dụng công nghệ. Đó có thể là thay thế lớp học truyền thống bằng các công cụ livestream.Có thể là giao bài về nhà trên các nền tảng giáo dục trực tuyến. Hoặc ở nhiều nơi, trong đó có Việt Nam, hầu hết các trường học có thể duy trì dạy và học online toàn phần hoặc bán phần trong giai đoạn giãn cách xã hội", ông Nhạ phát biểu.
Song, người đứng đầu ngành giáo dục Việt Nam nhấn mạnh: "Tuy nhiên nếu chúng ta chỉ dừng ở đây vì cho rằng đã cán đích, thì quả thực nguy hiểm".
Bộ trưởng Phùng Xuân Nhạ nói tiếp, cuộc khủng hoảng COVID mang tới những bài học quan trọng trong chuyển đổi mô hình giáo dục trong tương lai, về những điều mà các quốc gia cần chuẩn bị tốt hơn cho viễn cảnh giáo dục trong thế kỷ XXI. Nhà trường của chúng ta hầu như vẫn chưa thực sự khai thác được tiềm lực mang tính cải cách của công nghệ trên diện rộng. Rất hiếm khi sức mạnh của công nghệ được huy động để cá nhân hoá hoạt động giáo dục và thúc đẩy việc học. Để làm được việc này, Việt Nam đang tập trung số hoá các nội dung giảng dạy có chất lượng, mang tính ứng dụng thực tiễn cao để hoàn thiện Kho học liệu mở giáo dục quốc gia với 5000 bài giảng e-learning và 2000 video bài giảng trên truyền hình. Chúng tôi cũng đang trong quá trình xây dựng và triển khai hệ thống đánh giá người học trực tuyến nhằm giúp giáo viên xác định nhu cầu học tập cá nhân của học sinh dựa trên dữ liệu thời gian thực để từ đó kịp thời đa dạng hoá phương pháp giảng dạy.
Tuy vậy, đây liệu đã phải mục tiêu cuối cùng mà chúng ta cần hướng đến? ông Nhạ đặt câu hỏi trước khi nói đến tham vọng ở đầu bài viết này.
Nhiều rào cản cần vượt qua
Nói về liên thông trình độ trong khu vực ASEAN, theo Bộ trưởng việc để một người lao động, một sinh viên, một học sinh tốt nghiệp ở một đất nước này có thể tiếp tục học tập và làm việc ở một nước thành viên khác mà không mất thời gian gián đoạn chuyển tiếp không chỉ giới hạn trong liên thông giáo dục, mà nó nằm trong một câu hỏi lớn hơn, làm thế nào để tối ưu hóa nguồn nhân lực trong khu vực?
Theo ông Nhạ, đầu tư phát triển nguồn nhân lực không chỉ là đào tạo mới và đào tạo lại mà còn là công nhận và tận dụng nhân lực có trình độ đã qua đào tạo. Cộng đồng kinh tế ASEAN đã thống nhất ký kết các thỏa thuận công nhận lẫn nhau về lao động kỹ năng ở trình độ cao (MRAs), trình độ trung bình và thấp (MRS).Mạng lưới các trường đại học Đông Nam Á được thành lập vào năm 1995 theo thỏa thuậncủa các Bộ trưởng Giáo dục ASEAN, cho tới nay đã phát triển bao gồm 30 trường đại học thành viên chính thức thuộc 10 nước, trong đó có 2 trường đại học của Việt Nam. Đây là một dấu mốc lớn trong công nhận một cách công bằng về chất lượng lao động giữa các quốc gia trong nội khối ASEAN.
"Mặc dù vậy, nhìn về tương lai, chúng ta vẫn nhận thấy nhiều điều phải làm và nhiều rào cản cần vượt qua. Làm thế nào chúng ta có thể đảm bảo ngang bằng về chất lượng đào tạo, thậm chí là chất lượng đào tạo trực tuyến, giữa các cơ sở giáo dục từ nhiều hệ thống khác nhau, với những cơ chế kiểm tra giám sát khác nhau?Rõ ràng các trường đại học và các cơ quan quản lý giáo dục đại học của các nước thành viên cần có những bước tiến xa hơn nữa trong việc hợp tác, chia sẻ kinh nghiệm đào tạo cũng như xây dựng cơ chế giám sát chung hài hoà, thống nhất", ông Nhạ phát biểu.