Đây là diễn đàn ý nghĩa trong bối cảnh mục tiêu trọng tâm của năm 2018 là phải tạo sự chuyển biến rõ nét trong cơ cấu lại nền kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng.
Phát biểu tại Diễn đàn, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng cho biết, 30 năm đổi mới đã làm thay đổi diện mạo nền kinh tế Việt Nam, tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, đời sống người dân được cải thiện và Việt Nam đã trở thành quốc gia có mức thu nhập trung bình.
Đặc biệt, năm 2017, mặc dù đối mặt với nhiều khó khăn của kinh tế thế giới và khu vực, song tăng trưởng kinh tế Việt Nam vẫn đạt được mức tăng trưởng ấn tượng 6,81%, cao hơn mục tiêu Quốc hội đề ra là 6,7% và là mức tăng trưởng cao nhất trong 10 năm qua.
Cùng với tốc độ tăng trưởng, chất lượng tăng trưởng cũng được cải thiện, năng suất lao động của toàn nền kinh tế năm 2017 tăng khoảng 6%. Mô hình tăng trưởng được dịch chuyển theo hướng tích cực, giảm dần dựa vào khai thác tài nguyên, nhất là dầu thô và chuyển hướng sang lấy công nghiệp, chế biến, chế tạo và dịch vụ làm nòng cốt. Tăng trưởng năm 2017 cũng được đánh giá đều ở các khu vực của nền kinh tế và đạt được những thành tựu khác về giảm nghèo, an sinh xã hội và bảo vệ môi trường.
Theo Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng, năm 2017 cũng ghi nhận thành công của Việt Nam trong thực hiện tài cơ cấu nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng, cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế.
Theo đó, môi trường kinh doanh Việt Nam đã có những cải thiện tích cực, niềm tin của người dân, doanh nghiệp được củng cố, số lượng doanh nghiệp thành lập mới đạt 127 ngàn doanh nghiệp, vốn đầu tư FDI thu hút đạt 35,88 tỷ USD.
Kim ngạch xuất nhập khẩu đạt 425 tỷ USD, môi trường kinh doanh được Ngân hàng Thế giới đánh giá tăng 14 bậc, đứng thứ 68/190 nền kinh tế; năng lực cạnh tranh quốc gia theo Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF) tăng 5 bậc, đứng thứ 55/137 quốc gia và vùng lãnh thổ…
Mặc dù đạt được những kết quả nhất định, song các chuyên gia kinh tế cho rằng kinh tế Việt Nam vẫn đứng trước nhiều thách thức, thể hiện qua GDP bình quân đầu người còn thấp, năng suất lao động chưa cao, đóng góp của các nhân tố tổng hợp (TFP) chưa được như kỳ vọng; nguy cơ mắc bẫy thu nhập trung bình và tụt hậu về kinh tế vẫn nghiêm trọng.
Cùng với đó, bất bình đẳng về thu nhập giữa các tầng lớp dân cư có xu hướng gia tăng, các vấn đề môi trường và tác động của biến đổi khí hậu, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 và hội nhập kinh tế quốc tế cũng tạo ra những thách thức lớn đối với nền kinh tế Việt Nam.
Từ những thách thức trên, ông Andress Schfeicher, Giám đốc Điều hành kỹ năng giáo dục của OECD cho rằng, giáo dục và các kỹ năng giáo dục có ý nghĩa rất quan trọng đối với phát triển bền vững ở Việt Nam, đặc biệt trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghệ 4.0 đang diễn ra mạnh mẽ và tác động đến mọi vấn đề của nền kinh tế.
Nếu con người không có kỹ năng giáo dục tốt sẽ không thể tiếp cận được tri thức và theo kịp trình độ khoa học công nghệ. Để tạo được đội ngũ lao động lành nghề, có kỹ năng, Việt Nam cần tập trung hơn nữa cho giáo dục.
Bà Caitlin Wiesen, Giám đốc Quốc gia UNDP Việt Nam cũng cho rằng, phát triển bền vững không chỉ là mục tiêu bao trùm của Việt Nam mà là mục tiêu của tất cả các quốc gia trong khu vực và trên thế giới.
Tại Việt Nam, mặc dù đạt được tốc độ tăng trưởng ấn tượng và đồng đều, nhiều người dân đã thoát khỏi đói nghèo và hiện Việt Nam trở thành quốc gia có dân số thu nhập trung bình nhanh (chiếm 50% dân số), nhưng rất nhiều người dân Việt Nam đã quay lại nghèo đói sau những cú sốc về thiên tai.
Để đạt được mục tiêu phát triển bền vững, Việt Nam cần có những giải pháp hỗ trợ đối với những người dễ bị tổn thương trong xã hội để không ai bị bỏ lại phía sau. "Một quốc gia phát triển bền vững là một quốc gia không để ai bị bỏ lại phía sau”, bà Caitlin Wiesen nhấn mạnh.
Để thực hiện tăng trưởng thịnh vượng, đi đôi với bền vững môi trường trên nền tảng cuộc cách mạng công nghệ 4.0, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng nhấn mạnh, Việt Nam cần tập trung vào 6 giải pháp trọng tâm, bao gồm:
Thứ nhất, tiếp tục tập trung cải cách thể chế, luật pháp, cơ chế, chính sách và môi trường, tạo điều kiện thuận lợi, an toàn để kinh tế thị trường vận hành đầy đủ, thông suốt, hiệu quả; phát huy mạnh mẽ quyền dân chủ, tự do sáng tạo của người dân trong phát triển kinh tế - xã hội.
Tập trung xây dựng chiến lược, quy hoạch phát triển theo cơ chế thị trường. Chấm dứt việc xây dựng các quy hoạch về đầu tư phát triển hàng hóa, dịch vụ, sản phẩm cụ thể, ấn định khối lượng, số lượng hàng hóa, dịch vụ, sản phẩm được sản xuất, tiêu dùng, làm hạn chế sự tham gia thị trường các thành phần kinh tế.
Thứ hai, tạo môi trường kinh doanh bình đẳng, đẩy mạnh tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước, phát triển mạnh mẽ khu vực kinh tế tư nhân, thu hút chọn lọc đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI).
Thứ ba, đổi mới hệ thống sáng tạo quốc gia, lấy doanh nghiệp và các định chế Nghiên cứu và Phát triển (R &D) làm trung tâm, phát huy năng lực sáng tạo của mọi cá nhân, doanh nghiệp, tổ chức. Thúc đẩy khởi nghiệp sáng tạo, kết nối doanh nghiệp, ý tưởng khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo với các nhà đầu tư, quỹ đầu tư...
Thứ tư, phát huy các cực tăng trưởng, nâng cao hiệu quả kinh tế vùng và đô thị. Phát triển các cực tăng trưởng mới với việc xây dựng 3 đặc khu hành chính - kinh tế với thể chế vượt trội, có khả năng cạnh tranh quốc tế. Phát huy các cơ chế đặc thù ở TP. Hồ Chí Minh, Hà Nội, làm đầu tàu và tạo sự lan tỏa cho cải cách và phát triển.
Tận dụng đô thị hóa để đẩy mạnh hiện đại hóa và công nghiệp hóa. Định hình lại chính sách và đầu tư để phát huy mật độ kinh tế xung quanh các vùng đô thị lớn và các đô thị thứ cấp có tiềm năng; giảm phân biệt xã hội về tiếp cận dịch vụ giữa người nhập cư và cư dân đô thị.
Thứ năm, bảo đảm công bằng và hòa nhập xã hội: Thay đổi vai trò của Nhà nước trong cung cấp dịch vụ công. Thực hiện cơ chế thị trường và đẩy mạnh xã hội hoá đối với cung cấp các dịch vụ công. Chuyển từ cơ chế cấp phát sang đặt hàng và từ cấp kinh phí cho các đơn vị cung ứng sang hỗ trợ trực tiếp cho đối tượng thụ hưởng.
Đổi mới chính sách xã hội phù hợp với thay đổi cấu trúc dân số khi tỷ lệ người nghèo còn rất thấp, tầng lớp trung lưu tăng nhanh và già hóa dân số. Đảm bảo bình đẳng về cơ hội phát triển cho tất cả mọi người, đặc biệt là nhóm người yếu thế. Thúc đẩy phát triển và đáp ứng nhu cầu của tầng lớp trung lưu vì sự thịnh vượng chung.
Thứ sáu, phát triển bền vững về môi trường và thích ứng với biến đổi khí hậu. Nâng cao năng lực dự báo, cảnh báo thiên tai, giám sát biến đổi khí hậu. Tăng cường khả năng chống chịu; huy động nguồn lực đầu tư các công trình, dự ánứng phó với biến đổi khí hậu, phòng, chống thiên tai, kể cả từ các nhà tài trợ quốc tế.
Đảm bảo bền vững môi trường bao gồm bảo vệ chất lượng không khí, đất và nước; lồng ghép khả năng chống chịu trước tác động khí hậu vào kế hoạch kinh tế, chính sách ngành và đầu tư hạ tầng; quan tâm đến các nguồn năng lượng sạch. Hướng đến đầu tư “thông minh” (với sự tham gia của khu vực tư nhân) nhằm tính đầy đủ các phí tổn về khí hậu và môi trường.