“Bệnh” mỏng vốn cản ngân hàng bơm tín dụng

0:00 / 0:00
0:00
Hệ số An toàn vốn (CAR) của ngân hàng Việt Nam thua xa các ngân hàng trong khu vực, trong khi áp lực cung ứng vốn cho nền kinh tế thời gian tới là rất lớn.
Thách thức lớn nhất với ngân hàng thương mại Việt Nam là bộ đệm vốn mỏng, Hệ số An toàn vốn thấp so với nhiều nước, dẫn tới hạn chế tăng trưởng tín dụng. Ảnh: Đức Thanh. Đồ họa: Đan Nguyễn

Thách thức lớn nhất với ngân hàng thương mại Việt Nam là bộ đệm vốn mỏng, Hệ số An toàn vốn thấp so với nhiều nước, dẫn tới hạn chế tăng trưởng tín dụng. Ảnh: Đức Thanh. Đồ họa: Đan Nguyễn

Ngân hàng Việt thua kém ngân hàng khu vực về vốn

Năm nay, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đặt mục tiêu tăng trưởng tín dụng 16%. Từ năm tới, nếu GDP tăng trưởng 2 con số, tín dụng có thể phải tăng 18-20% (để tăng trưởng 1% GDP, cần 2% tăng trưởng tín dụng). Muốn tăng trưởng tín dụng tốc độ cao như vậy, các ngân hàng sẽ phải tăng mạnh vốn điều lệ thời gian tới.

Ông Phan Đức Tú, Chủ tịch HĐQT BIDV cho hay, với ngân hàng, nguyên tắc lớn nhất khi tăng trưởng tín dụng là phải đảm bảo năng lực tài chính. Với yêu cầu tăng trưởng tín dụng cao hơn thời gian tới, vốn tự có của ngân hàng cũng phải tăng tương ứng. Tuy nhiên, đây là bài toán khó với ngân hàng Việt.

“Các ngân hàng lớn khu vực ASEAN đã áp dụng tiêu chuẩn Basel III, trong khi ngân hàng Việt Nam chưa áp dụng. Các ngân hàng thương mại như chúng tôi đang chịu áp lực rất lớn khi vừa phải tăng trưởng để phục vụ tăng trưởng nhanh của nền kinh tế, vừa phải đáp ứng được các tiêu chuẩn, yêu cầu theo thông lệ quốc tế”, ông Tú cho biết.

Theo ông Ivan Tan, Giám đốc Xếp hạng Định chế tài chính của S&P Global Ratings, thách thức lớn nhất với các ngân hàng thương mại Việt Nam là bộ đệm vốn mỏng, dẫn tới hạn chế tăng trưởng tín dụng.

Tình trạng mỏng vốn tiếp tục là thách thức với ngân hàng Việt trong thời gian tới. Ảnh: Đức Thanh
Tình trạng mỏng vốn tiếp tục là thách thức với ngân hàng Việt trong thời gian tới. Ảnh: Đức Thanh

Hiện tại, Hệ số An toàn vốn (CAR) của các ngân hàng Campuchia là 22,6%, Thái Lan là 20,5%, các ngân hàng Trung Quốc là 15,6%. Trong khi đó, ở Việt Nam, CAR của các ngân hàng là 12,4%.

Tính đến cuối năm 2024, tổng vốn điều lệ của 28 ngân hàng (Agribank và 27 ngân hàng niêm yết) là 823.522 tỷ đồng (tương đương khoảng 33 tỷ USD), tăng 15,23% so với cuối năm 2023. Trong đó, 16 ngân hàng có quy mô vốn điều lệ trên 1 tỷ USD (năm 2023 có 12 ngân hàng).

Xét về quy mô, các ngân hàng Việt thua kém rất nhiều ngân hàng trong khu vực. Trong Danh sách AB500 Strength Rank (xếp hạng về sức mạnh của các ngân hàng), không có đại diện nào của Việt Nam lọt Top 100. Top 200 ngân hàng lớn nhất trong danh sách 1.000 ngân hàng lớn nhất khu vực châu Á - Thái Bình Dương năm 2024 cũng vắng bóng đại diện đến từ Việt Nam.

Với tốc độ tăng vốn như hiện nay, Việt Nam sẽ khó đạt mục tiêu có ngân hàng lọt Top 100 khu vực trong ngắn hạn, ngay cả nhóm Big 4 - những ngân hàng có tổng tài sản lớn nhất hệ thống. Đơn cử, với Vietcombank, theo báo cáo của Chính phủ, nếu Vietcombank giữ được tốc độ tăng tổng tài sản hiện nay (khoảng 9%/năm), thì phải mất 24 năm nữa, mới vượt qua được quy mô tổng tài sản của Hua Nan Bank - ngân hàng đang đứng thứ 100 trong danh sách xếp hạng ngân hàng khu vực.

“Cởi trói” tăng vốn cho Big 4

Hiện nay, việc tăng vốn của các ngân hàng thương mại gặp nhiều khó khăn. Đặc biệt, nhóm ngân hàng thương mại có vốn nhà nước (Big 4) đang chiếm gần một nửa thị phần tín dụng toàn nền kinh tế, song việc tăng vốn lại phải trình duyệt rất nhiều cấp, ảnh hưởng tốc độ tăng vốn và dư địa tăng trưởng tín dụng.

Chính vì vậy, phát biểu với Thủ tướng Chính phủ gần đây, lãnh đạo các ngân hàng BIDV, Agribank đều khẩn thiết bày tỏ mong muốn được giữ lại lợi nhuận để tăng vốn điều lệ. Ông Phạm Toàn Vượng, Tổng giám đốc Agribank kiến nghị Chính phủ xem xét cấp bổ sung vốn điều lệ từ lợi nhuận thực nộp hàng năm của Agribank, tối thiểu 10.000 tỷ đồng/năm, bắt đầu từ năm 2025 để Ngân hàng có thể tăng trưởng tín dụng.

Theo tính toán của lãnh đạo Agribank, để thực hiện mục tiêu tăng tín dụng 13% năm 2025 (tức bơm thêm ra nền kinh tế hơn 200.000 tỷ đồng), Ngân hàng cần bổ sung 15.000-17.000 tỷ đồng vốn tự có, thì mới đảm bảo an toàn vốn.

Về vấn đề này, GS-TS. Hoàng Văn Cường, đại biểu Quốc hội khóa XV, nguyên Phó hiệu trưởng Đại học Kinh tế Quốc dân cho rằng, nên thay đổi cơ chế giúp ngân hàng thương mại nhà nước chủ động hơn trong tăng vốn. Việc ngân hàng thương mại nhà nước mỗi lần muốn tăng vốn trên 10.000 tỷ đồng phải làm thủ tục trình Chính phủ, Quốc hội như hiện nay quá rườm rà, mất thời gian, gây lãng phí và khiến doanh nghiệp bỏ lỡ cơ hội kinh doanh.

“Chưa kể, không phải đại biểu Quốc hội nào cũng am hiểu về hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Theo tôi, cần sớm sửa Luật Đầu tư vốn nhà nước vào doanh nghiệp (Luật 69) theo hướng trao cho ngân hàng quyền tự quyết”, ông Cường nhận định.

Tại buổi làm việc với ngành ngân hàng tháng 2/2025, Thủ tướng Chính phủ cũng giao Thống đốc NHNN Nguyễn Thị Hồng khẩn trương sửa đổi quy định liên quan tăng vốn cho các ngân hàng thương mại nhà nước để bảo đảm cạnh tranh lành mạnh với các ngân hàng thương mại cổ phần.

Theo các chuyên gia, tình trạng mỏng vốn tiếp tục là thách thức với ngân hàng Việt thời gian tới. Điểm tích cực là tăng trưởng lợi nhuận của ngân hàng Việt ổn định và tỷ suất sinh lời tốt so với các ngân hàng trong khu vực. Do đó, các ngân hàng sẽ tiếp tục duy trì tốc độ tăng vốn bằng lợi nhuận giữ lại (thông qua chia cổ tức).

Ngoài ra, những năm gần đây, một số ngân hàng cũng tăng vốn nhanh chóng nhờ bán vốn thành công cho đối tác ngoại. Theo các chuyên gia, muốn gọi vốn ngoại thành công, các ngân hàng cần nâng cao hiệu quả hoạt động, cải thiện hình ảnh, thương hiệu để có thêm “cửa” thu hút thêm nhà đầu tư chiến lược.

Giải pháp bán cổ phần cho nhà đầu tư nước ngoài

- Ông Ivan Tan, Giám đốc Xếp hạng Định chế Tài chính, S&P Global Ratings

Một trong những giải pháp để ngân hàng Việt tăng vốn là bán cổ phần cho nhà đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, giải pháp này đang bị hạn chế bởi giới hạn “room” sở hữu tối đa 30%. Hiện các ngân hàng tốt ở Việt Nam đã kín room vốn ngoại, khó có thể gia tăng hơn nữa.

Ngoài ra, nhiều cổ đông nước ngoài cũng không hài lòng vì các ngân hàng Việt những năm gần đây ít trả cổ tức tiền mặt, mà hầu hết trả cổ tức bằng cổ phiếu. Đây là điểm khác biệt so với ngân hàng các nước khác. Việc trả cổ tức bằng cổ phiếu bản chất chỉ giữ nguyên tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư ngoại mà không làm tăng vốn.

Tin bài liên quan