Open Banking được đánh giá là một trong những dấu ấn quan trọng trong quá trình đổi mới công nghệ tài chính trong hệ thống ngân hàng, cụ thể dấu ấn này là như thế nào?
Open Banking là một xu hướng nổi bật trong ngành công nghệ tài chính (Fintech) được đề cập nhiều những năm gần đây. Theo đó, ngân hàng và các tổ chức tài chính mở giao diện lập trình ứng dụng (API), cho phép bên thứ ba truy cập vào hệ thống dữ liệu cần thiết, để phục vụ việc phát triển ứng dụng và dịch vụ mới, cung cấp thêm tiện ích cho khách hàng, đồng thời cung cấp cho khách hàng các tùy chọn minh bạch hơn về tài chính dựa theo thoả thuận của chính người dùng với ngân hàng và tổ chức cung ứng dịch vụ đó.
Open Banking đang mở ra một kỷ nguyên mới, mà ở đó khách hàng có thể sử dụng các dịch vụ ngân hàng tại bất cứ nền tảng nào tùy theo mục đích của mình.
Nói cách khác, Open Banking đang mở ra một kỷ nguyên mới, mà ở đó khách hàng có thể sử dụng các dịch vụ ngân hàng tại bất cứ nền tảng nào tùy theo mục đích của mình.
Bằng việc các ngân hàng tích cực đưa ra các sản phẩm ngân hàng số theo mô hình Open Banking - Banking as a service (BaaS) thì ngay tại Việt Nam, chúng ta có thể nhận thấy người dân ngày một quen với việc các ví điện tử cung cấp đa dạng hơn các nghiệp vụ mà trước đây chỉ ngân hàng mới có thể xử lý, phổ biến nhất là thanh toán, chuyển khoản, nhưng chắc chắn tương lai sẽ còn đa dạng hơn. Có thể nói, Open Banking đang ngày càng ảnh hưởng nhiều hơn tới toàn bộ cách thức vận hành và cung ứng dịch vụ của ngành ngân hàng.
Về phía khách hàng, nhờ có Open Banking, họ sử dụng được các sản phẩm của ngân hàng từ nhiều ứng dụng khác nhau, ngoài ngân hàng số. Bằng sự liên kết chặt chẽ trong hệ sinh thái Open Banking, người dùng cũng có thể nhìn thấy bức tranh tài chính tổng thể của mình từ các tài khoản ngân hàng hay ví điện tử, thậm chí cả các ứng dụng chợ mua sắm online (e-commerce).
Bên cạnh đó, người chưa đủ điều kiện tiếp cận dịch vụ ngân hàng truyền thống hoặc người có thu nhập thấp cũng nhận được nhiều lợi ích hơn, cải thiện khả năng tiếp cận tín dụng bằng dữ liệu tài chính thay thế (như dữ liệu từ các nhà mạng viễn thông, di động…).
Với ngân hàng, Open Banking giúp tiếp cận đa dạng đối tượng khách hàng với chi phí chia sẻ thông qua các nền tảng đối tác. Từ đó, ngân hàng có thể tạo ra các sản phẩm, dịch vụ mang tính cá nhân hóa để giữ chân khách hàng lâu hơn và lượng khách hàng thân thiết tăng bền vững hơn.
Nói cách khác, ngân hàng trong tương lai gần sẽ cần tập trung nhiều hơn vào việc tổng quát hóa và tối ưu các sản phẩm cốt lõi để phục vụ đa dạng hơn nhu cầu khách hàng tại các nền tảng sản phẩm, dịch vụ khác nhau trong hệ sinh thái số.
Ngoài ra, việc có nguồn dữ liệu khách hàng đa dạng hơn còn hỗ trợ ngân hàng chấm điểm tín dụng khách hàng chính xác hơn. Việc chấm điểm này tại Việt Nam có thể còn chưa được phổ biến, nhưng nhìn vào các thị trường lớn như Mỹ, Trung Quốc… thì có thể thấy, với tốc độ chuyển đổi số nhanh như hiện tại, người dùng tại Việt Nam cũng sẽ sớm nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của Open Banking trong việc tiếp cận với các sản phẩm tài chính - ngân hàng.
Tại một số quốc gia, phạm vi Open Banking chủ yếu là tài khoản thanh toán hay các sản phẩm cho vay, cầm cố, thẻ tín dụng và quỹ đầu tư…, vậy ở Việt Nam thực hiện nhiệm vụ gì?
Nhìn vào bức tranh Fintech tại Việt Nam, có hơn 50% thị phần thuộc về các ví điện tử. Do đó, có thể khẳng định, các nghiệp vụ thanh toán - chuyển tiền đang chiếm tỷ trọng lớn nhất và giành ưu thế nhất trong xu thế Open Banking hiện nay.
Tuy nhiên, trong 1-2 năm gần đây, với sự xuất hiện dịch Covid-19, việc mua sắm qua mạng và thanh toán không tiền mặt trở nên phổ biến hơn, làn sóng “mua trước, trả sau (Buy now, pay later)” đang gia tăng nhanh chóng.
Một ví dụ điển hình cho làn sóng này là sản phẩm ví trả sau đang được hưởng ứng tích cực từ người dùng ví điện tử.
Đây có thể coi là một sản phẩm BaaS điển hình mà TPBank và một thương hiệu ví điện tử bắt tay thực hiện, cho phép khách hàng có thể được phê duyệt trước một khoản tiền nhỏ để thanh toán các hóa đơn điện, nước, internet…, mà không cần có sẵn tiền trong tài khoản. Theo đó, có hơn 60.000 người đăng ký sử dụng sản phẩm chỉ sau 2 tháng đầu tiên ra mắt và con số này vẫn đang tăng lên hàng ngày.
Bên cạnh đó, với việc hành lang pháp lý lĩnh vực Fintech ngày một hoàn thiện, các sản phẩm đầu tư, tiết kiệm, thẻ tín dụng… theo mô hình Open Banking cũng liên tục được nghiên cứu và triển khai. Chắc chắn trong tương lai, Open Banking sẽ mở rộng phạm vi tới toàn bộ sản phẩm ngân hàng bán lẻ, thậm chí cả các doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp siêu nhỏ.
Tại nhiều thị trường phát triển như Anh, Úc…, việc tham gia vào hoạt động Open Banking là bắt buộc, còn một số quốc gia và vùng lãnh thổ khu vực châu Á như Singapore, Đài Loan, Hồng Kông…, ngân hàng có quyền tự chủ trong việc kết nối với đối tác Open Banking. Với Việt Nam, theo ông, hướng đi nào phù hợp cho mô hình này?
Trong thời đại số, Open Banking là một xu thế tất yếu, nhưng thực sự rất khó có thể xác định một hướng đi cụ thể dưới dạng “công thức” vì còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố và điều kiện triển khai cụ thể.
Tại Việt Nam, hoạt động Open Banking đang được các ngân hàng triển khai ở nhiều cấp độ, dưới nhiều hình thức dịch vụ khác nhau và một trong những cách tiếp cận phổ biến có thể kể đến là xây dựng các nền tảng Open API, khi mà đa số ngân hàng đều đang cung cấp các nền tảng này với tài liệu và hướng dẫn kết nối chi tiết.
Tuy mức độ “mở” trong phát triển kinh doanh, khẩu vị rủi ro, cũng như sự đa dạng về thông tin dữ liệu cung cấp còn chưa được chuẩn hoá, chủ yếu đến từ nhu cầu của từng ngân hàng, nhưng có thể nói đây là một bước ngoặt quan trọng và là cơ sở cho việc phát triển Open Banking tại Việt Nam.
Về phía TPBank, với định hướng phát triển BaaS được coi như chiến lược quan trọng, môi trường thử nghiệm cô lập “Sandbox” cho các nhà phát triển cũng đang được “làm giàu” lên từng ngày. Bên cạnh đó, hạ tầng công nghệ phục vụ kết nối cũng được chú trọng nâng cấp để không chỉ tối ưu về mặt tương thích với đa dạng đối tác, mà còn đáp ứng được tiêu chuẩn kết nối và bảo mật trong nước và quốc tế.
Ứng dụng Open Banking để khai thác, mở rộng khách hàng mới cho ngân hàng: Kể từ khi mô hình này được triển khai, nhiều ngân hàng Việt Nam đã đạt tỷ lệ trên 90% giao dịch giữa khách hàng với ngân hàng thực hiện trên kênh số; các ngân hàng Việt Nam được đánh giá có mức độ thâm nhập, ứng dụng ngân hàng số với tốc độ nhanh nhất khu vực (theo đánh giá tháng 9/2021 của hãng tư vấn McKinsey); đây cũng là động lực để các ngân hàng liên tục phát triển các dịch vụ ngân hàng trên kênh số (thanh toán - chuyển tiền, tiền gửi, tiết kiệm, bảo hiểm liên kết ngân hàng...) để đáp ứng tốt nhu cầu giao dịch trực tuyến mọi lúc, mọi nơi của người dân, doanh nghiệp.
Từ mô hình hợp tác eKYC nói trên, tùy các mục tiêu phát triển kinh doanh cũng như nhu cầu thị trường mà các ngân hàng có thể khai thác thêm các dịch vụ BaaS khác nhau với các đối tác phù hợp. Trên tất cả, nhu cầu của khách hàng vẫn là cốt lõi trong việc quyết định xem tương lai Open Banking của Việt Nam sẽ được phát triển ra sao.
Để đảm bảo an toàn và phát triển các dịch vụ Open Banking, ông có cho rằng cần thiết sớm ban hành các khung khổ pháp lý phù hợp?
Chắc chắn là như vậy và tôi tin là các cơ quan quản lý, đặc biệt là Ngân hàng Nhà nước, đã và đang rất tích cực trong việc xây dựng các chính sách và khung khổ pháp lý để vừa đảm bảo tối ưu các lợi thế của Open Banking, vừa đáp ứng các tiêu chuẩn an toàn, cũng như bảo mật cho hệ thống và người dùng sử dụng các dịch vụ tài chính - ngân hàng.
Cụ thể, năm 2017, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước đã thành lập Ban chỉ đạo về lĩnh vực Fintech, trong đó nghiên cứu, xây dựng việc kết nối, chia sẻ dữ liệu thông qua giao diện chương trình ứng dụng mở (Open API) là một trong những nhiệm vụ trọng tâm. Mới đây, theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước đã lấy ý kiến về dự thảo Nghị định quy định cơ chế thử nghiệm có kiểm soát hoạt động công nghệ tài chính trong lĩnh vực ngân hàng.
Trong đó nêu rõ, cơ chế thử nghiệm này là một trong những công cụ và cách tiếp cận chính sách ưa thích nhất được nhiều nước áp dụng. Phương án này cho phép thử nghiệm các giải pháp bằng những giao dịch thực trong một môi trường có kiểm soát, giới hạn về phạm vi, quy mô, thời gian thử nghiệm.
Theo dự thảo, chia sẻ dữ liệu qua Open API thuộc 1 trong 6 nhóm lĩnh vực ưu tiên tham gia thử nghiệm, 5 lĩnh vực còn lại gồm cấp tín dụng trên nền tảng công nghệ; chấm điểm tín dụng cho vay ngang hàng (P2P Lending); ứng dụng công nghệ chuỗi khối, sổ cái phân tán (Blockchain Technology, DLT) trong hoạt động ngân hàng và ứng dụng các công nghệ khác trong hoạt động nghiệp vụ ngân hàng.
Bên cạnh đó, Chỉ thị số 16/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường năng lực tiếp cận cách mạng công nghệ 4.0 cũng có thể được coi là nền tảng để các cơ quan, ban ngành xây dựng hạ tầng công nghệ thông tin và công nghệ số để bảo đảm an toàn, an ninh mạng, tạo điều kiện cho người dân và doanh nghiệp dễ dàng, bình đẳng trong tiếp cận các cơ hội phát triển nội dung số.
Để triển khai Open Banking, các ngân hàng cần đảm bảo yêu cầu gì?
Như đã nói ở trên, để triển khai hoạt động này, sự chuẩn bị nền tảng kiến trúc hạ tầng/công nghệ phù hợp là điều kiện cần thiết đầu tiên. Hiện nay, hầu hết ngân hàng tại Việt Nam chưa có nhiều sự chuẩn bị ngay từ đầu cho việc mở rộng này, do đó việc nâng cấp, đổi mới là vô cùng quan trọng và cần triển khai càng sớm càng tốt để kịp thời đáp ứng nhu cầu kinh doanh và xu thế chung.
Bên cạnh đó, tư duy Open Banking phải được hiện thực hóa ở ngay chiến lược kinh doanh mà các ngân hàng hướng tới. Chúng ta cần được các lãnh đạo cấp cao “bật đèn xanh” cho các mô hình kinh doanh mới, các phương thức cung cấp sản phẩm dịch vụ mới.
Cuối cùng, khi số lượng các nghiệp vụ giao dịch tiền, tín dụng, cũng như việc chia sẻ thông tin ngày càng được chú trọng trong hợp tác giữa ngân hàng và công ty Fintech, việc cân đối khẩu vị rủi ro cần được chú trọng hơn.
Về phía ngân hàng, mọi hoạt động đều diễn ra dưới sự kiểm soát chặt chẽ của Ngân hàng Nhà nước với các yêu cầu rất cao về an toàn thông tin và bảo mật hệ thống, phòng ngừa rủi ro. Trong khi đó, các công ty Fintech lại đặt ưu tiên cao hơn cho trải nghiệm khách hàng theo hướng nhanh - tiện lợi - dễ tiếp cận, mà chưa được quản lý bởi các quy định quá ngặt nghèo.
Do đó, việc hợp tác giữa ngân hàng - công ty Fintech đòi hỏi sự thay đổi lớn về tư duy quản trị rủi ro của các ngân hàng và sự hoàn thiện hơn về cơ chế kiểm soát rủi ro của các công ty Fintech, đặc biệt liên quan tới bảo mật thông tin khách hàng và phòng chống các nguy cơ từ tội phạm mạng sao cho không xảy ra các mất mát, lỗ hổng không đáng có, mà vẫn đảm bảo mục tiêu phục vụ người dùng và phát triển kinh doanh.